Văn hóa - Xã hội
85 Chân dung Văn hóa, Văn chương Việt - Tập 1
GS. Phong Lê

Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”, và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội. 

Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp. 

Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập. 

Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh. 

Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được. 

m 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.

Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.

1798 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Nghệ là tên chung để chỉ hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, còn được biết đến về mặt văn hóa với tên gọi văn hóa Lam Hồng, bởi có chung núi Hồng, sông Lam. Tên gọi Nghệ An xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1030 khi vua Lý Thánh Tông đặt địa danh hành chính cho vùng đất này là Nghệ An châu trại. Theo chiều dài lịch sử, vùng đất Nghệ Tĩnh được đổi tên nhiều lần: trại Nghệ An, Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên. Đến năm 1490, hoàng đế Lê Thánh Tông đổi là xứ Nghệ An. Cái tên xứ Nghệ cũng có lẽ chính thức bắt đầu từ đó, đồng thời với xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Hải Đông... Năm 1831, sau cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng, phạm vi hành chính của xứ Nghệ An bị thu hẹp lại, tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa có cắt một phần đất của Nghệ - Tĩnh sáp nhập vào nước bạn Lào, phần còn lại tương đương với hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Năm 1976, chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáp nhập hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ - Tĩnh. Đến năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách thành hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và duy trì cho đến ngày nay. Do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện thiên nhiên đặc biệt, vùng đất này có những sắc thái độc đáo riêng, góp phần tạo nên vẻ đẹp chung của giang sơn gấm vóc Việt Nam.
2477 lượt xem
Danh thắng Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Chúng ta có Hà Nội, một thành phố thật đẹp. Hà Nội đẹp vẻ đẹp của nét cổ kính, trầm mặc. Hà Nội đẹp vẻ đẹp hòa quyện dấu ấn lịch sử - văn hóa qua thời gian. Hà Nội đẹp vẻ đẹp con người thanh lịch. Hà Nội đẹp vẻ đẹp tâm hồn cao nhã... Trong những cuộc phiếm du riêng biệt ở Hà Nội, mỗi nét đổi thay của thành phố đều là những khám phá đầy hứng thú, mang phong vị rất riêng. Hà Nội có một sức quyến rũ kỳ lạ đối với người xa đến. Ở chốn xa xôi nào đó, nơi hang cùng xóm vắng hay rừng sâu núi thẳm, phương trời Tây hay phương trời Nam, chiều chiều vẫn có những người ngóng về một phương trời để cố trông cái ánh sáng mờ của Hà Nội chiếu lên nền mây, để mong mỏi một ngày được bước chân trên những đường phố cũ, thưởng ngoạn, khám phá những danh thắng của đất đế đô 1000 năm tuổi. Danh thắng Hà Nội đa dạng lắm, phong phú lắm! Một mái nhà cũ nghiêng nghiêng trong khu Phố Cổ giữa lòng Thủ đô, một dáng cầu màu son cong cong soi bóng nước Hồ Gươm, một tòa thủy đình trầm mặc điểm xuyết giữa khung cảnh non nước hữu tình bên núi Thầy, những mái đình, mái chùa thấp thoáng trên dải Hương Sơn... Đó đều là tuyệt tác của thiên nhiên và bàn tay con người, góp phần điểm tô, thêu dệt nên bức tranh hương sắc ngàn năm của Thăng Long - Hà Nội, để mỗi người đều mong ước ít nhất một lần được tận mắt ngắm nhìn, trải nghiệm!
2491 lượt xem
Văn hóa truyền thống của người Cơ Ho
Hoàng Tuấn Cư, Hoàng Kim Ngọc

Nội dung cuốn sách được biên soạn công phu, phác họa một bức tranh tương đối toàn diện về tộc người Cơ-ho – cộng đồng cư dân chủ yếu sinh sống tại Lâm Đồng – cùng những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của họ. Người Cơ-ho gắn bó sâu sắc với nông nghiệp trồng lúa, thể hiện qua hệ thống lễ hội tạ ơn thần lúa như lễ gieo sạ, lễ cúng dưỡng lúa, lễ mừng lúa mới…, cũng như các nghi lễ cầu mùa như lễ cầu mưa hay lễ cúng bến nước. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ còn được làm phong phú bởi kho tàng văn học nghệ thuật dân gian giàu nhạc tính, trữ tình và độc đáo.

1237 lượt xem
Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc
Bộ Thông tin và Truyền thông

Việt Nam được ví như “bảo tàng tín ngưỡng, tôn giáo thế giới”, đời sống tín ngưỡng của người dân đa dạng, phong phú. Sự đa dạng của tín ngưỡng dân tộc qua các loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng thờ vua Hùng, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Tín ngưỡng phồn thực… Mặc dù các tín ngưỡng có nguồn gốc hình thành, phát triển khác nhau; nội dung, nghi lễ khác nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, các tín ngưỡng luôn có sự gắn kết, giao thoa với nhau để cùng tồn tại, phát triển trong một quốc gia, dân tộc. Các tín ngưỡng dân tộc mang những đặc điểm cơ bản như đa thần, bình đẳng, dân chủ, giàu chất nhân văn, hỗn dung tôn giáo.
Những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc đã góp phần tạo nên nét đẹp trong tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền tải những giá trị nhân văn của dân tộc như đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần cố kết cộng đồng… Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân tộc cũng đang bị lợi dụng ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng, làm suy giảm, mai một các giá trị nhân văn của các tín ngưỡng, lễ hội truyền thống. Nhiều vấn đề đặt ra từ sự tác động của một số xu hướng biến đổi tín ngưỡng đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền - Nguyễn Thị Hiệp biên soạn, xuất bản cuốn sách “Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc”.
Từ việc nghiên cứu thực trạng xu hướng biến đổi của các tín ngưỡng dân tộc trước sự tác động của quá trình hội nhập, cách mạng công nghệ, công nghiệp hóa, đô thị hóa… Và những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc trong điều kiện mới. Qua đó đề xuất nhóm giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của các tín ngưỡng dân tộc trong tiến trình bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong điều kiện mới hiện nay.

2227 lượt xem
Danh nhân Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thăng Long - Hà Nội là miền đất thiêng của dân tộc Việt Nam, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”. Chính nơi đây đã sản sinh và hun đúc nên nhiều bậc danh nhân hào kiệt, những tấm gương sáng chói trong suốt dặm dài lịch sử. Hàng ngàn năm qua, suốt từ buổi đầu lập nước cho đến hôm nay, dường như không lúc nào trên mảnh đất này lại vắng bóng những con người góp phần làm nên lịch sử. Họ là những vì sao lấp lánh trong lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Danh nhân Hà Nội, những người con sinh ra và trưởng thành trên vùng đất ngàn năm thương nhớ, đã đem tài trí, sức lực của mình xây dựng, gìn giữ quê hương, đồng thời có vai trò quan trọng trong xã hội, góp phần quyết định tới dòng chảy của lịch sử dân tộc. Họ đã khắc ghi tên mình và tên quê hương (Thăng Long - Hà Nội) vào lịch sử bằng danh tiếng, chiến tích và công lao trong trọn một đời tận tuỵ cống hiến cho Tổ quốc, cho quê hương. Thăng Long - Hà Nội sắp tròn 1000 năm tuổi. Thăng Long - Hà Nội đang mở ra thời kỳ phát triển mới với sức sống mãnh liệt của mảnh đất ngàn năm. Điểm lại một số gương mặt tiêu biểu của Thủ đô, các danh nhân Thăng Long - Hà Nội, để thấy lại những con người đã bằng trí tuệ và tâm hồn, sức lực và tâm huyết, đã góp phần đáng kể tạo tác nên một cốt cách Thăng Long thanh cao và bất hủ, sống mãi ngàn năm...
4318 lượt xem
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

577 lượt xem
ASEAN: 55 năm hình thành và phát triển (1967 - 2022)
Trần Xuân Hiệp, Trương Công Vĩnh Khanh

Sau những thể nghiệm đầu tiên về việc thành lập một tổ chức khu vực với sự tham gia của tất cả các quốc gia Đông Nam Á từ những năm 1960, cuối cùng một tổ chức chính thức đã ra đời vào ngày 08/8/1967, mang tên Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trải qua những thăng trầm lịch sử, sự tồn tại và phát triển của ASEAN là minh chứng cho tình đoàn kết chặt chẽ của các nước Đông Nam Á. Từ khi thành lập với ASEAN-6, từng bước kết nạp thêm các thành viên mới để trở thành ASEAN-10, và đến năm 2015, Cộng đồng ASEAN (AC) đã được xây dựng, củng cố trên ba trụ cột: Cộng đồng An ninh - Chính trị (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC), Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).
Sau 55 năm xây dựng và trưởng thành (1967 - 2022), ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trước hết, ASEAN đã tạo cho mình một vị thế mới, với vai trò là trung tâm trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, ủng hộ như EAS, ARF, ASEAN+1, ASEAN+3, RCEP, ADMM+ nhìn chung đều được các cường quốc và đối tác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương đón nhận. Ở cấp độ quốc gia, một số thành viên của ASEAN đã và đang tận dụng tốt sự cạnh tranh chiến lược, vị thế địa chính trị và các lợi thế riêng khác của mình để đóng vai trò lớn hơn trong xây dựng cấu trúc hợp tác khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, ASEAN đã gặt hái được những thành công ấn tượng về kinh tế, trở thành nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Á, sau Trung Quốc và Nhật Bản. Hơn nữa, tiến trình hội nhập của ASEAN đánh dấu một cột mốc, giai đoạn quan trọng mới với việc tuyên bố thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, mở ra một trang mới trong tiến trình liên kết kinh tế gắn chặt hơn. Về văn hóa - xã hội, ASEAN cũng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, thu hút sự tham gia của người dân và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân: thu hút sự tham gia của các nhóm, giới và các tiến trình của ASEAN; tăng quyền cho người dân và tăng cường các thể chế đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được rất đáng khâm phục, ASEAN hiện nay vẫn đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức. Khu vực Đông Nam Á được xác định là trung tâm của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và cũng là điểm mấu chốt của sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn, Đông Nam Á trở thành “đấu trường” can dự, lôi kéo, tập hợp lực lượng nhằm kiềm chế, ngăn chặn lẫn nhau. Ngoài ra, xuất phát từ lợi ích chiến lược, nội bộ ASEAN cũng có những vấn đề gây cản trở cho sự thống nhất cần có của một cộng đồng, chưa thật sự đoàn kết và đôi khi là những bất đồng giữa các nước thành viên về các nội dung liên quan. Điều này khiến cho sức mạnh chung của khu vực bị ảnh hưởng, có phần giảm sút khi đối diện với các vấn đề quốc tế cần tiếng nói của tập thể.
Với tầm quan trọng về vị trí địa chiến lược, địa kinh tế, địa văn hóa, ASEAN đã, đang và sẽ là nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực Đông Nam Á cũng như Ấn Độ - Thái Bình Dương, đồng thời là nhân tố trung tâm của nhiều định chế hợp tác trong khu vực. Cuốn sách “Cộng đồng ASEAN: 55 năm hình thành và phát triển (1967 - 2022)” ra đời trong thời điểm ASEAN hướng đến kỷ niệm 55 năm ngày thành lập sẽ tạo thêm nhiều động lực cho chúng ta cùng chung tay xây dựng hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN ngày một phát triển. Dù biết rằng các tác giả đã hết sức cố gắng, nhưng để nghiên cứu về ASEAN là việc không hề dễ dàng, vì thế, chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Hy vọng rằng, cuốn sách này sẽ góp phần cung cấp thông tin và kiến thức cho bạn đọc về quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN trong giai đoạn hiện nay.

6685 lượt xem
Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045
Australian Embassy Vietnam-Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Trung tâm Việt- Úc(VAC) Vietnam Australia Centre

Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045

Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045

939 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thủ đô Hà Nội là trung tâm của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc. Ít có nơi nào lưu giữ được nhiều chứng tích lịch sử như thành phố Hà Nội. Nơi đây, mỗi địa danh, mỗi đường phố đều gắn với các sự tích, chiến công của ông cha. Những địa danh như Cổ Loa, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình... chứa đựng những dấu ấn, ghi nhớ những chặng đường lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí bất khuất và tài năng của nhân dân Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Một nét kiến trúc Chùa Một Cột, tổng hòa không gian Văn Miếu - Quốc Tử Giám... đều góp phần làm rạng rỡ truyền thống lịch sử - văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là chứng tích vô giá của truyền thống ngàn năm văn vật, là viên ngọc quý, là cổ vật thiêng liêng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là biểu tượng của sức sống nội tại, được dựng xây từ mồ hôi công sức và cả xương máu của lớp lớp thế hệ người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Đó là những tảng đá nền kê chân cột để tạo dựng tòa nhà cao vững, vừa là bằng sắc để minh chứng cho quá khứ huy hoàng, vừa là di sản quý giá, là nét vàng son của phẩm chất đặc trưng cho con người Hà Nội, con người Việt Nam, vừa là linh hồn truyền tải những giá trị thiêng liêng của mảnh đất ngàn năm văn vật. Thăng Long - Hà Nội sắp bước qua tuổi ngàn năm. Thăng Long - Hà Nội có hàng ngàn di tích lịch sử - văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa chính là một cây cầu kết nối Thăng Long xưa với Hà Nội nay, nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai. Yêu Thăng Long - Hà Nội, trân trọng di sản của ông cha, trước hết và hơn hết là yêu, trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
2619 lượt xem
Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)
Lâm Kiến Hoa và nhiều tác giả 林建华 等著

Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)

Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)

1412 lượt xem
Mỹ thuật Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, mỹ thuật dân gian Hà Nội đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các tác phẩm điêu khắc được tạo tác ở các chùa, đình, đền Hà Nội, hay những bức tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng độc đáo thể hiện những dấu ấn lớn của mỹ thuật dân gian Thăng Long - Hà Nội nói riêng và mỹ thuật dân gian Việt Nam nói chung, phản ánh được tính cách và tâm hồn người Hà Nội xưa, bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa to lớn trong nhiều mặt của cuộc sống. Đến thời kỳ cận đại và hiện đại, mỹ thuật hiện đại Hà Nội với những con người Hà Nội mới, từ các hoạ sĩ tự học đến các họa sĩ ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từ các nghệ nhân dân gian đến những nghệ sĩ được đào tạo bài bản, đã không ngừng tiếp thu phương pháp khoa học tạo hình của Mỹ thuật phương Tây (được coi là một cơ sở khoa học xây dựng hình tượng nghệ thuật) và kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình truyền thống trong sáng tác mỹ thuật, đã làm chủ nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, lụa, tranh khắc, không ngừng sáng tạo các tác phẩm mỹ thuật trong dòng chảy chung của nghệ thuật. Mỹ thuật Hà Nội đã phản ánh được cái đẹp về hình ảnh cuộc sống, phong tục, tập quán của người Hà Nội, vẻ đẹp con người Hà Nội, với đầy đủ phẩm chất nghệ thuật và mang một bản sắc văn hoá tạo hình có nhiều nét riêng biệt. Nhiều tài năng bậc thầy, với nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo của Mỹ thuật Hà Nội đã góp phần tạo nên một diện mạo chung của nền mỹ thuật Việt Nam. Đồng thời, mỹ thuật Hà Nội là nơi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa truyền thống dân tộc, nơi ghi danh những bậc thầy của hội hoạ - điêu khắc Việt Nam hiện đại với những bản sắc độc đáo của mình.
2248 lượt xem
Hữu Ngọc: Đồng hành cùng thế kỷ Văn hóa - Lịch sử Việt Nam
Hữu Ngọc
Là “nhà xuất nhập khẩu văn hóa”, Hữu Ngọc đã sáng tác và thuyết trình nhiều để giới thiệu ra thế giới tinh hoa văn hóa Việt Nam và phổ biến trong nước tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc. Chúng tôi, độc giả nước ngoài, tìm hiểu văn hóa Việt Nam qua tác phẩm Lãng du trong văn hóa Việt Nam của ông: bản tiếng Anh (Wandering through Vietnamese culture) được Giải vàng sách Việt Nam 2006, tái bản và in 10 lần, bản tiếng Pháp (A la decourverte de la culture du Vietnam) được giải GADIF 2008 (Giải các đại sứ và tổ chức Pháp ngữ ở Việt Nam) và in 6 lần - tổng cộng khoảng hai vạn bản in. Hữu Ngọc là một mắt xích nối văn hóa Việt Nam với văn hóa thế giới. Tác phẩm Hữu Ngọc - Đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam giới thiệu lịch sử văn hóa Việt Nam qua chân dung những người cùng thời với ông. Hữu Ngọc sinh cuối năm 1918. Ông sống gần trọn thế kỷ XX và bắc cầu sang thế kỷ XX - XXI. Ở trong nước, ông vừa là nhân chứng và như các công dân Việt Nam khác, là tác nhân ít nhiều của các giai đoạn lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, Cách mạng tháng Tám, Tuyên ngôn độc lập, chiến tranh chống Pháp, Mỹ, Khơme đỏ, Trung Quốc, thời “bao cấp”, thời “đổi mới mở cửa” đến “toàn cầu hóa”. Trong khung cảnh quốc tế, ông cũng sống trong giai đoạn cực kỳ biến động, sau chiến tranh thế giới I, cuộc đấu tranh dân chủ chống Phát xít, chiến tranh thế giới II, chiến tranh lạnh, Mỹ bá chủ thế giới sau khi Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, công cuộc phi thực dân hóa, thế giới thứ ba trỗi dậy, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vô tiền khoáng hậu, sự diễn biến sắp xếp - cân bằng lực lượng của các siêu cường… Trong tác phẩm này, Hữu Ngọc thể nghiệm vốn sống của mình trong bối cảnh quốc gia và quốc tế, thể nghiệm qua giao lưu trực tiếp và gián tiếp (sách, báo, thông tin) với những người cùng thời. Hữu Ngọc hiểu “Hữu Ngọc đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam” theo quan niệm chủ quan của mình: đó là những người trong nước và ngoài nước sống và hành động khi ông bước vào tuổi có ý thức về cuộc sống xã hội ngoài cái nôi gia đình (tuổi lên 9 - 10). Đối với ông, cụm từ “những người cùng thời” bao gồm những nhân vật có tên và cả quần chúng, các nhóm xã hội vô danh. Vì tác giả chỉ đề cập đến những giao lưu tiếp xúc bản thân, nên có thể có những nhân vật và sự kiện quan trọng đương thời không xuất hiện trong sách của ông. Thị lực của Hữu Ngọc rất yếu nhưng cái nhìn nội tâm của ông lại rất sâu sắc, đôi lúc hóm hỉnh khi phác họa một chân dung, kể lại một sự việc, nêu lên hay thể hiện một vấn đề. Mong các bạn đọc thích thú tìm thấy ở những người cùng thời một bức trang lịch sử gần trăm năm với những âm hưởng lan tỏa cho đến ngày nay.
2054 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Quảng
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Quảng là vùng đất vốn thuộc vương quốc Chămpa xưa. Sau nhiều biến cố lịch sử, vùng đất này đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Đại Việt. Buổi đầu thời Lê Sơ (thế kỷ XV), trên bản đồ quốc gia, vùng đất Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi được ghi là Nam Giới, được xem như một phên dậu của Đại Việt. Năm Hồng Đức thứ 2 (1471), giữa Đại Việt và Chămpa xảy ra xung đột. Vua Lê Thánh Tông thân chinh và đánh thắng Chămpa, cắt đặt vùng đất từ phía nam đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông làm Thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ, 9 huyện. Cũng từ thời vua Lê Thánh Tông, tên gọi xứ Quảng bắt đầu xuất hiện trong dân gian bên cạnh xứ Thanh, xứ Nghệ... Sau thời kỳ chiến tranh Lê - Mạc và Trịnh - Nguyễn, vùng đất này nằm dưới quyền cai quản của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát phân chia lãnh thổ Đàng Trong thành 12 dinh. Về mặt hành chính, xứ Quảng khi đó trực thuộc dinh Quảng Nam. Tại xứ Quảng có cửa biển Hội An là cửa biển duy nhất lúc bấy giờ được phép buôn bán với nước ngoài. Năm 1806, vua Gia Long chia cả nước làm 23 đơn vị hành chính. Trong đó, đạo Quảng Nam hay dinh Quảng Nam được chia thành 3 trấn. Xứ Quảng hiện nay thuộc vào địa giới hành chính của doanh Quảng Nam và trấn Quảng Ngãi. Năm 1832, vua Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính quy mô lớn, đổi tất cả trấn và doanh thành tỉnh, đặt các chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát trông coi việc cai trị. Địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam (nay là Quảng Nam và Đà Nẵng) và tỉnh Quảng Ngãi lúc bấy giờ tương đương với xứ Quảng hiện nay. Dưới thời Pháp thuộc (1858-1945), sau khi Liên bang Đông Dương được thành lập (1887), chính quyền thực dân Pháp tách Đà Nẵng khỏi Quảng Nam, đổi tên là Tourane, trở thành một đơn vị hành chính độc lập, chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính quyền Quốc gia Việt Nam (tức chính quyền Bảo Đại). Đến tháng 3 năm 1965, các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa quy định là thành phố trực thuộc Trung ương. Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa. Từ đó đến nay, tỉnh Quảng Nam, tỉnh Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng là 3 đơn vị hành chính độc lập. Cũng như các tiểu vùng văn hóa khác, quá trình hình thành và phát triển của tiểu vùng văn hóa xứ Quảng là sự tích hợp của nhiều yếu tố tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa... Các yếu tố này mang đặc trưng riêng biệt, tạo cho mỗi vùng miền những bản sắc không pha lẫn trong tổng thể lịch sử - văn hóa Việt Nam. Những giá trị đặc trưng của văn hóa xứ Quảng đã góp phần làm giàu thêm nét đặc sắc, đa dạng trong văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, sứ mệnh lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa quý báu đó phải được xem là trọng trách không chỉ của những con người sinh sống trên mảnh đất này, mà còn là trách nhiệm chung của cả cộng đồng và xã hội Việt Nam nói chung.
1325 lượt xem
Một số góc nhìn về triết lý giáo dục
PGS. TS. Đặng Quốc Bảo, PGS. TS. Phạm Minh Giản, ThS. Phạm Minh Xuân, ThS. Đặng Thị Thu Liễu
Các tác giả Đặng Quốc Bảo, Phạm Minh Giản, Phạm Minh Xuân, Đặng Thị Thu Liễu thừa kế ý tưởng của các vị thầy và bằng hữu đã biên soạn cuốn sách: “Một số góc nhìn về triết lý giáo dục”. Vì “Triết lý” và “Giáo dục” là hai lĩnh vực phong phú của quá trình nhận thức và quá trình phát triển nên những nội dung nêu ra ở cuốn sách này mới chỉ là thu hoạch bước đầu. Dẫu sao đây là những cố gắng đáng trân trọng cho việc đi tìm kiến giải mới cho “Đổi mới tư duy giáo dục”. Chúng tôi vui mừng giới thiệu cuốn sách này tới những người quan tâm và mong được sự góp ý để nhóm tác giả hoàn thiện việc nghiên cứu.
2221 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Đông
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Đông, hay xứ Hải Đông, là tên gọi dân gian để chỉ tiểu vùng văn hóa nằm ở mạn phía đông của vùng đồng bằng sông Hồng, chủ yếu bao gồm tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng hiện nay. Lấy Thăng Long - Kẻ Chợ làm trung tâm, có thể chia 4 phần còn lại của đồng bằng Bắc Bộ - tam giác châu sông Hồng và sông Thái Bình thành “tứ trấn” (tứ chiếng): Hải Đông trấn (lộ, xứ) tức xứ Đông; Sơn Tây trấn (xứ) tức xứ Đoài; Sơn Nam trấn (xứ) tức xứ Nam; Kinh Bắc trấn (xứ) tức xứ Bắc. Còn miền núi phía Bắc và từ Thanh, Nghệ trở vào Nam thì đều là vùng ngoại vi đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Với cách phân chia như vậy, xứ Đông gần như nằm trọn trong lưu vực sông Thái Bình. Hệ thống sông Thái Bình bị chi phối mạnh bởi chế độ thủy triều nên đất đai ở xứ Đông không màu mỡ như ở xứ Nam. Nguồn sống chính của cư dân nơi đây chủ yếu dựa vào đánh bắt thủy hải sản kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Thủ công nghiệp trong vùng cũng khá phát triển, đặc biệt tập trung quanh các khu vực kế cận thành phố Hải Dương, thành phố Hải Phòng với số lượng ngành nghề đa dạng, phong phú, như nghề làm vật dụng (chiếu, nón, lược, mũ, giầy dép), nề, mộc, chạm khắc, đan mây tre, chế biến lương thực thực phẩm, khắc ván in sách... Xứ Đông có vị chí chiến lược quan trọng. Từ Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) có 6 đường thủy bộ đi ra biển và tiến vào đất liền, kết nối với Thăng Long - Hà Nội. Cũng chính vì lý do đó nên hoạt động thương mại ở nơi đây diễn ra từ rất sớm. Buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển suốt một dải ven biển Hải Phòng và mở rộng ra khu vực lân cận, tạo thành những đầu mối giao thương không chỉ của thương nhân khắp mọi miền đất nước Việt Nam mà còn của khách buôn ngoại quốc đến từ Trung Quốc, Cao Ly (Triều Tiên), Ấn Độ... Văn hóa xứ Đông có sự hội tụ, hỗn dung giữa văn hóa nông nghiệp (đồng bằng) và văn hoá biển (vùng duyên hải, hải đảo). Quá trình đô thị hoá (nhất là từ thời Pháp thuộc với các trung tâm công nghiệp, khai mỏ...) làm phong phú, đa dạng hơn văn hóa nơi đây nhờ sự tiếp nhận những yếu tố mới ảnh hưởng từ bên ngoài. Cư dân xứ Đông khá phức tạp. Cộng đồng cư dân nơi đây là kết quả của nhiều đợt di cư trong lịch sử. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ I, chính quyền đô hộ Đông Hán chuyển một bộ phận người dân từ miền trung du xuống ven biển làm muối và khai thác hải sản. Theo sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (dòng họ Vũ “tổ tiến sĩ” ở Mộ Trạch, Bình Giang, Hải Dương) thì Hải Đông là quê hương nguyên thủy của nhà Trần thuở hàn vi lưu lạc, sau mới dời về Tức Mặc - Thiên Trường (Nam Định). Tiếp đó, dân cư từ các vùng khác cũng đến khẩn hoang, lập làng. Cũng có trường hợp những người vượt biển từ phía bắc xuống, phía nam lên. Từ muôn nẻo, các nhóm cư dân kẻ trước người sau cùng tới mảnh đất này, cộng cư lâu dài, tạo thành một cộng đồng cư dân mới trong vùng.
1830 lượt xem