Văn hóa - Xã hội
Hồ sơ văn hóa Mỹ (A File on American Culture)
Hữu Ngọc
Trong không khí trao đổi văn hóa quốc tế từ sau cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề tìm hiểu văn hóa Mỹ được đặt ra, nhất là sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận (1994). Ở nước ta, có một kho tàng trước tác phong phú bằng tiếng Việt về những nền văn hóa châu Á - đặc biệt về Trung Quốc, Ấn Độ - và các nước Đông Âu. Đối với các nền văn hóa phương Tây, chúng ta biết rõ nhất là văn hóa Pháp. Đối với văn hóa Mỹ, nhất là ở phía Bắc vĩ tuyến 17, chúng ta chưa có một cuốn sách nào trình bày một cách sâu sắc và có hệ thống. Trong khi chờ đợi một tác phẩm bác học và toàn vẹn như thế, chúng tôi muốn đóng góp một phần khiêm tốn vào vấn đề ấy. Sách này bắt đầu bằng hai câu hỏi: “Có một nền văn hóa Mỹ hay không? Nếu có thì cái hay cái dở của nó như thế nào?” Chúng tôi đặt hai câu hỏi này cho hơn một chục bạn ở Mỹ (da trắng, da đen, da đỏ), Anh, Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Luxembourg; những bài trả lời được in nguyên, không bình luận, coi như bản dạo đầu với vấn đề. Cuốn sách là những cảm tưởng, ghi chép, bài nghiên cứu, phóng sự, phỏng vấn, đối thoại, bản dịch thơ và văn xuôi, bản tóm tắt tác phẩm, có cả thống kê và bảng khái quát, - đa số của tác giả, nhưng cũng có những đóng góp của bạn bè Mỹ và người nước ngoài khác, một số bài của báo chí quốc tế. Cuốn sách này là một tập Hồ sơ văn hóa Mỹ. Vì là hồ sơ nên không khỏi không có ý lặp lại hoặc đối lập. Chúng tôi tôn trọng sự tự do lựa chọn của độc giả.
853 lượt xem
Phóng sự báo chí - Lý thuyết, kỹ năng và kinh nghiệm
TS. Nguyễn Quang Hòa
Bằng một cách nào đó, bạn đã có và bắt đầu đọc cuốn sách này, điều đó có nghĩa trong huyết quản của bạn đã có “máu” của một người viết phóng sự. Đây là cuốn sách được biên soạn để hỗ trợ việc giảng dạy môn Phóng sự báo chí cho sinh viên năm thứ ba, bên cạnh giáo trình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ở thời điểm này, sinh viên đã được học lịch sử báo chí, cách viết tin, quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí, làm quen với một số thể loại báo chí khác như Tường thuật, Ghi nhanh. Học nghề báo không thể chỉ nghe, đọc tài liệu mà rất quan trọng phần trao đổi, hướng dẫn của những người giàu kinh nghiệm trong quá trình thực hiện đề tài cụ thể. Bởi vậy, cuốn sách này ngoài cung cấp những kiến thức cơ bản về thể loại Phóng sự báo chí như: Hoàn cảnh lịch sử ra đời và phát triển của phóng sự, các dạng phóng sự, các quan niệm khác nhau về thể loại phóng sự cũng như các đặc điểm của thể loại này; những tố chất cần có của người viết; sách còn dành nhiều trang đề cập tới cách vượt qua những khó khăn khi tác nghiệp trong thực tế và cách thể hiện để bài viết sinh động, cuốn hút; cả những vấp váp của tác giả và những đồng nghiệp để bạn đọc tham khảo, sau này tránh lặp lại.
1624 lượt xem
Việt Nam - Ấn Độ: Bối cảnh mới, tầm nhìn mới
PGS. TS LÊ VĂN TOAN
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có nền tảng vững chắc từ lâu đời, khởi nguồn từ những mối liên hệ và giao lưu lịch sử sâu xa về văn hóa - tôn giáo - thương mại. Mối quan hệ đó không ngừng được phát huy và được nâng lên một tầm cao mới nhờ sự tạo dựng, vun đắp của hai vị lãnh tụ tiền bối, hai nhà văn hóa kiệt xuất là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Jawaharlal Nehru, cùng các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước. Thủ tướng J.Nehru cũng chính là một trong những vị khách đầu tiên đến thăm Việt Nam sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Tháng 02/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm và làm việc tại Ấn Độ. Kể từ đó, các chuyến thăm cấp cao giữa hai bên ngày càng được tăng cường. Hơn nửa thế kỷ qua, tuy tình hình của mỗi nước Việt Nam, Ấn Độ, tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến động, cũng như sự đan xen phức tạp của các mối quan hệ quốc tế, nhưng quan hệ Việt Nam - Ấn Độ vẫn “trong sáng như bầu trời không một gợn mây”. Câu nói này của Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ những năm 1980 vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay và vẫn được các thế hệ lãnh đạo hai nước nhắc lại như một câu châm ngôn khi nói đến mối tình keo sơn, ngày càng phát triển giữa hai dân tộc. Năm 2017 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Ấn Độ khi hai nước kỷ niệm 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (07/01/1972 - 07/01/2017) và 10 năm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược (tháng 7/2007 - 7/2017). Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã hợp với Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Hội Hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ tổ chức xuất bản Bộ sách về đất nước, con người Ấn Độ, gồm 8 cuốn: 1. Ấn Độ: Đất nước - Xã hội - Văn hóa. 2. Kinh tế Ấn Độ - Tiến trình tự lực, tự cường. 3. Người Ấn Độ - Sự thật về lý do tại sao thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Ấn Độ. 4. Người Ấn Độ thích tranh luận. 5. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, năng lượng. 6. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa. 7. Văn hóa chiến lược của Ấn Độ - Xây dựng chính sách an ninh quốc gia. 8. Việt Nam - Ấn Độ: Bối cảnh mới, tầm nhìn mới. Nội dung Bộ sách giới thiệu về lịch sử, văn hóa, kinh tế và con người Ấn Độ; làm nổi bật văn hóa chiến lược của Ấn Độ trong xây dựng chính sách an ninh quốc gia qua các thời kỳ lịch sử; đặc biệt là các công trình khoa học của các chuyên gia Việt Nam và Ấn Độ về mối quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa, kinh tế.
1103 lượt xem
Công trình kiến trúc Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Hà Nội là nơi hội tụ tinh hoa ngàn năm văn vật, là điểm giao hòa của muôn nẻo văn hóa. Dáng nét u tịch, trầm mặc của bóng chùa Trấn Quốc soi mình bên hồ Tây; Những mái nhà nhỏ xinh lớp lớp chồng diêm trong khu phố cổ; Bức tường rêu phong cổ kính của Nhà thờ Lớn; Vẻ uy nghi, đường bệ của mái vòm Nhà hát Lớn; Bông sen tinh khiết, thanh tao nằm cạnh bậc vĩ nhân của dân tộc giữa lòng Thủ đô; Những con sóng uốn lượn dập dềnh trên mái Trung tâm Hội nghị Quốc gia... đã trở thành biểu tượng của vẻ đẹp Thủ đô. Này đây dáng dấp kiến trúc cổ truyền Á Đông trong những nếp nhà, mái đình Hà Nội. Này đây mạch nguồn châu Âu trong những công trình kiến trúc Pháp được thiết kế và xây dựng bởi chính các kiến trúc sư người Pháp. Này đây những thành tựu mới nhất của khoa học kiến trúc hiện đại được tạo tác bởi chính bàn tay và khối óc những con người mới trong một thời đại mới. Mỗi dáng nét đại diện cho một thời kỳ lịch sử trong tiến trình hàng ngàn năm xây dựng và phát triển của Thăng Long - Hà Nội. Song, kỳ diệu thay, tất cả lại đồng thời hiện hữu trong mỗi sớm mai khi thành phố bừng tỉnh giấc, để cùng con người nơi đây dựng xây cuộc sống tươi mới, và tôn vinh những bàn tay lao động sáng tạo đã xây đắp lên những công trình kiến trúc tuyệt đẹp của Thủ đô.
1296 lượt xem
Hội phù đổng - Mật trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam
Nguyễn Văn Huyên
Từ rất xa xưa, câu chuyện về Thánh Gióng, một cậu bé lên ba, sinh ra không biết nói, nhưng đã bật lên tiếng nói khi nghe tin có người của nhà Vua đi cầu hiền tài danh giặc cứu nước. Và câu nói đầu tiên của đời mình là xin mẹ mời sứ giả đến gặp. Rồi cậu lớn lên như thổi, cưỡi ngựa sắt đánh tan quân thù, giành độc lập cho đất nước. Câu chuyện này đã được ông bà, cha mẹ kể cho con cháu từ đời này qua đời khác, trở thành đề tài văn học với những áng thơ văn bất hủ, thành hình tượng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật và trở thành những bài đọc trong sách giáo khoa phổ thông. Câu chuyện đã gieo vào lòng các thế hệ người Việt Nam óc tưởng tượng cùng với biết bao bài học từ huyền thoại đó. Có lẽ không người Việt Nam nào không biết câu chuyện này. Thế nhưng, không phải người Việt Nam nào cũng biết tại một số làng quê ở đồng bằng Bắc Bộ như các làng Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên (huyện Gia Lâm), Vệ Linh, Dược Thượng (huyện Sóc Sơn, Hà Nội), người dân không những chỉ thờ Thánh Gióng mà còn tổ chức ngày hội làng với những diễn xướng và biểu tượng đầy kịch tính, vô cùng sáng tạo từ câu chuyện Thánh Gióng. Hội làng có sức thu hút và cảm thụ mãnh liệt với niềm thành kính và tín ngưỡng sâu đậm. Chính nhờ những ngày hội làng này, huyền thoại Thánh Gióng đã sống mãi với dân làng. Và hơn nữa, hội làng lại trở thành một nhu cầu văn hóa và tâm linh không thể thiếu được của nhân dân. Và với lý do đó, UNESCO đã công nhận hội Gióng ở đền Sóc và đền Phù Đổng là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Năm 1937 và 1938, nhà dân tộc học Nguyễn Văn Huyên đã tham dự hội Gióng ở làng Phù Đổng. Ông đã xuất bản hai công trình trên cơ sở ghi chép lại tỉ mỉ ngày hội và đặc biệt tập trung vào miêu tả diễn xưởng và biểu tượng về một trận đánh thần kỳ trong ngày hội (xuất bản năm 1938). Những bài hát cổ và mới của Phường Ải Lao cũng được ghi lại (xuất bản năm 1941). Đặc biệt những bức ảnh đen trắng công bố trong 2 bài trên cho thấy những hình ảnh hội một cách chân thực nhất. Đây là những tư liệu đặc biệt quý, hiếm với di sản văn hóa độc đáo này. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc.
600 lượt xem
Tư tưởng phật giáo trong văn hóa Lào - Việt Nam: Một cơ sở kiến tạo tình đoàn kết
TS Đỗ Thu Hiền, TS Nguyễn Phương Liên

Nội dung Bộ sách giới thiệu những thông tin cơ bản về đất nước và con người Lào, về những đặc trưng của đất nước Triệu Voi thông qua các lĩnh vực lịch sử - quân sự, chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội,... cùng song hành trong thế tương quan so sánh với những đặc trưng về đất nước và con người Việt Nam. Bên cạnh đó, bộ sách còn đi sâu phân tích mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và những triển vọng kết nối trên tất cả lĩnh vực. Qua đó giúp cho việc triển khai hiệu quả kế hoạch hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới và cũng là nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung, đặc biệt là với đất nước Lào; nhằm không ngừng củng cố, tăng cường và phát triển hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Lào, đúng như mong muốn và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việt - Lào hai nước chúng ta Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”

1478 lượt xem
ASEAN: 55 năm hình thành và phát triển (1967 - 2022)
Trần Xuân Hiệp, Trương Công Vĩnh Khanh

Sau những thể nghiệm đầu tiên về việc thành lập một tổ chức khu vực với sự tham gia của tất cả các quốc gia Đông Nam Á từ những năm 1960, cuối cùng một tổ chức chính thức đã ra đời vào ngày 08/8/1967, mang tên Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trải qua những thăng trầm lịch sử, sự tồn tại và phát triển của ASEAN là minh chứng cho tình đoàn kết chặt chẽ của các nước Đông Nam Á. Từ khi thành lập với ASEAN-6, từng bước kết nạp thêm các thành viên mới để trở thành ASEAN-10, và đến năm 2015, Cộng đồng ASEAN (AC) đã được xây dựng, củng cố trên ba trụ cột: Cộng đồng An ninh - Chính trị (APSC), Cộng đồng Kinh tế (AEC), Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC).
Sau 55 năm xây dựng và trưởng thành (1967 - 2022), ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trước hết, ASEAN đã tạo cho mình một vị thế mới, với vai trò là trung tâm trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, ủng hộ như EAS, ARF, ASEAN+1, ASEAN+3, RCEP, ADMM+ nhìn chung đều được các cường quốc và đối tác trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương đón nhận. Ở cấp độ quốc gia, một số thành viên của ASEAN đã và đang tận dụng tốt sự cạnh tranh chiến lược, vị thế địa chính trị và các lợi thế riêng khác của mình để đóng vai trò lớn hơn trong xây dựng cấu trúc hợp tác khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, ASEAN đã gặt hái được những thành công ấn tượng về kinh tế, trở thành nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Á, sau Trung Quốc và Nhật Bản. Hơn nữa, tiến trình hội nhập của ASEAN đánh dấu một cột mốc, giai đoạn quan trọng mới với việc tuyên bố thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015, mở ra một trang mới trong tiến trình liên kết kinh tế gắn chặt hơn. Về văn hóa - xã hội, ASEAN cũng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, thu hút sự tham gia của người dân và mang lại lợi ích thiết thực cho người dân: thu hút sự tham gia của các nhóm, giới và các tiến trình của ASEAN; tăng quyền cho người dân và tăng cường các thể chế đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được rất đáng khâm phục, ASEAN hiện nay vẫn đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức. Khu vực Đông Nam Á được xác định là trung tâm của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và cũng là điểm mấu chốt của sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn, Đông Nam Á trở thành “đấu trường” can dự, lôi kéo, tập hợp lực lượng nhằm kiềm chế, ngăn chặn lẫn nhau. Ngoài ra, xuất phát từ lợi ích chiến lược, nội bộ ASEAN cũng có những vấn đề gây cản trở cho sự thống nhất cần có của một cộng đồng, chưa thật sự đoàn kết và đôi khi là những bất đồng giữa các nước thành viên về các nội dung liên quan. Điều này khiến cho sức mạnh chung của khu vực bị ảnh hưởng, có phần giảm sút khi đối diện với các vấn đề quốc tế cần tiếng nói của tập thể.
Với tầm quan trọng về vị trí địa chiến lược, địa kinh tế, địa văn hóa, ASEAN đã, đang và sẽ là nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực Đông Nam Á cũng như Ấn Độ - Thái Bình Dương, đồng thời là nhân tố trung tâm của nhiều định chế hợp tác trong khu vực. Cuốn sách “Cộng đồng ASEAN: 55 năm hình thành và phát triển (1967 - 2022)” ra đời trong thời điểm ASEAN hướng đến kỷ niệm 55 năm ngày thành lập sẽ tạo thêm nhiều động lực cho chúng ta cùng chung tay xây dựng hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN ngày một phát triển. Dù biết rằng các tác giả đã hết sức cố gắng, nhưng để nghiên cứu về ASEAN là việc không hề dễ dàng, vì thế, chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Hy vọng rằng, cuốn sách này sẽ góp phần cung cấp thông tin và kiến thức cho bạn đọc về quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN trong giai đoạn hiện nay.

1517 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Nghệ là tên chung để chỉ hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, còn được biết đến về mặt văn hóa với tên gọi văn hóa Lam Hồng, bởi có chung núi Hồng, sông Lam. Tên gọi Nghệ An xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1030 khi vua Lý Thánh Tông đặt địa danh hành chính cho vùng đất này là Nghệ An châu trại. Theo chiều dài lịch sử, vùng đất Nghệ Tĩnh được đổi tên nhiều lần: trại Nghệ An, Nghệ An phủ, Nghệ An thừa tuyên. Đến năm 1490, hoàng đế Lê Thánh Tông đổi là xứ Nghệ An. Cái tên xứ Nghệ cũng có lẽ chính thức bắt đầu từ đó, đồng thời với xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Hải Đông... Năm 1831, sau cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng, phạm vi hành chính của xứ Nghệ An bị thu hẹp lại, tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa có cắt một phần đất của Nghệ - Tĩnh sáp nhập vào nước bạn Lào, phần còn lại tương đương với hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Năm 1976, chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáp nhập hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ - Tĩnh. Đến năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách thành hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và duy trì cho đến ngày nay. Do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện thiên nhiên đặc biệt, vùng đất này có những sắc thái độc đáo riêng, góp phần tạo nên vẻ đẹp chung của giang sơn gấm vóc Việt Nam.
1617 lượt xem
Danh thắng Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Chúng ta có Hà Nội, một thành phố thật đẹp. Hà Nội đẹp vẻ đẹp của nét cổ kính, trầm mặc. Hà Nội đẹp vẻ đẹp hòa quyện dấu ấn lịch sử - văn hóa qua thời gian. Hà Nội đẹp vẻ đẹp con người thanh lịch. Hà Nội đẹp vẻ đẹp tâm hồn cao nhã... Trong những cuộc phiếm du riêng biệt ở Hà Nội, mỗi nét đổi thay của thành phố đều là những khám phá đầy hứng thú, mang phong vị rất riêng. Hà Nội có một sức quyến rũ kỳ lạ đối với người xa đến. Ở chốn xa xôi nào đó, nơi hang cùng xóm vắng hay rừng sâu núi thẳm, phương trời Tây hay phương trời Nam, chiều chiều vẫn có những người ngóng về một phương trời để cố trông cái ánh sáng mờ của Hà Nội chiếu lên nền mây, để mong mỏi một ngày được bước chân trên những đường phố cũ, thưởng ngoạn, khám phá những danh thắng của đất đế đô 1000 năm tuổi. Danh thắng Hà Nội đa dạng lắm, phong phú lắm! Một mái nhà cũ nghiêng nghiêng trong khu Phố Cổ giữa lòng Thủ đô, một dáng cầu màu son cong cong soi bóng nước Hồ Gươm, một tòa thủy đình trầm mặc điểm xuyết giữa khung cảnh non nước hữu tình bên núi Thầy, những mái đình, mái chùa thấp thoáng trên dải Hương Sơn... Đó đều là tuyệt tác của thiên nhiên và bàn tay con người, góp phần điểm tô, thêu dệt nên bức tranh hương sắc ngàn năm của Thăng Long - Hà Nội, để mỗi người đều mong ước ít nhất một lần được tận mắt ngắm nhìn, trải nghiệm!
1467 lượt xem
Món ngon Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Nói đến hương và vị của món ăn Việt Nam, trước hết phải nói đến món ngon Hà Nội. Chính chiều dài lịch sử, bề dày văn hoá của mảnh đất rồng thiêng ngàn năm đã góp phần quan trọng hình thành khẩu vị của người Hà Nội. Hà Nội là nơi hội tụ của bốn phương, mang chứa tinh hoa hương vị, khẩu vị của mọi vùng, mọi xứ. Các món quà từ khắp nơi được mang về Hà Nội, được kiểm định, tôn vinh và gìn giữ trên chính mảnh đất này. Cái ngon ở Hà Nội dào dạt những hương vị hồn quê ấy. Mấy bìa đậu phụ Mơ mềm mại, ngọt mát; Một bát phở bò nghi ngút; Mấy cặp chả cá thơm lừng; Bát canh cá rô Đầm Sét; Chén rượu tim rắn ấm nồng; Đĩa giò Ước Lễ mềm đậm; Vài phong bánh cốm trong ngày cưới; Bánh cuốn Thanh Trì, bánh cốm Hàng Than, bánh tôm Hồ Tây, bánh chè lam Thạch Xá, bánh dợm Phú Nhi, bánh đa Sủi, bánh dày Quán Gánh... đượm chút gì rất tinh tế, ý vị trong thú ẩm thực đất Kinh kỳ. Tất cả tạo nên một phong vị rất riêng của ẩm thực đất Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
1009 lượt xem
Hữu Ngọc: Đồng hành cùng thế kỷ Văn hóa - Lịch sử Việt Nam
Hữu Ngọc
Là “nhà xuất nhập khẩu văn hóa”, Hữu Ngọc đã sáng tác và thuyết trình nhiều để giới thiệu ra thế giới tinh hoa văn hóa Việt Nam và phổ biến trong nước tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc. Chúng tôi, độc giả nước ngoài, tìm hiểu văn hóa Việt Nam qua tác phẩm Lãng du trong văn hóa Việt Nam của ông: bản tiếng Anh (Wandering through Vietnamese culture) được Giải vàng sách Việt Nam 2006, tái bản và in 10 lần, bản tiếng Pháp (A la decourverte de la culture du Vietnam) được giải GADIF 2008 (Giải các đại sứ và tổ chức Pháp ngữ ở Việt Nam) và in 6 lần - tổng cộng khoảng hai vạn bản in. Hữu Ngọc là một mắt xích nối văn hóa Việt Nam với văn hóa thế giới. Tác phẩm Hữu Ngọc - Đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam giới thiệu lịch sử văn hóa Việt Nam qua chân dung những người cùng thời với ông. Hữu Ngọc sinh cuối năm 1918. Ông sống gần trọn thế kỷ XX và bắc cầu sang thế kỷ XX - XXI. Ở trong nước, ông vừa là nhân chứng và như các công dân Việt Nam khác, là tác nhân ít nhiều của các giai đoạn lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, Cách mạng tháng Tám, Tuyên ngôn độc lập, chiến tranh chống Pháp, Mỹ, Khơme đỏ, Trung Quốc, thời “bao cấp”, thời “đổi mới mở cửa” đến “toàn cầu hóa”. Trong khung cảnh quốc tế, ông cũng sống trong giai đoạn cực kỳ biến động, sau chiến tranh thế giới I, cuộc đấu tranh dân chủ chống Phát xít, chiến tranh thế giới II, chiến tranh lạnh, Mỹ bá chủ thế giới sau khi Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, công cuộc phi thực dân hóa, thế giới thứ ba trỗi dậy, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vô tiền khoáng hậu, sự diễn biến sắp xếp - cân bằng lực lượng của các siêu cường… Trong tác phẩm này, Hữu Ngọc thể nghiệm vốn sống của mình trong bối cảnh quốc gia và quốc tế, thể nghiệm qua giao lưu trực tiếp và gián tiếp (sách, báo, thông tin) với những người cùng thời. Hữu Ngọc hiểu “Hữu Ngọc đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam” theo quan niệm chủ quan của mình: đó là những người trong nước và ngoài nước sống và hành động khi ông bước vào tuổi có ý thức về cuộc sống xã hội ngoài cái nôi gia đình (tuổi lên 9 - 10). Đối với ông, cụm từ “những người cùng thời” bao gồm những nhân vật có tên và cả quần chúng, các nhóm xã hội vô danh. Vì tác giả chỉ đề cập đến những giao lưu tiếp xúc bản thân, nên có thể có những nhân vật và sự kiện quan trọng đương thời không xuất hiện trong sách của ông. Thị lực của Hữu Ngọc rất yếu nhưng cái nhìn nội tâm của ông lại rất sâu sắc, đôi lúc hóm hỉnh khi phác họa một chân dung, kể lại một sự việc, nêu lên hay thể hiện một vấn đề. Mong các bạn đọc thích thú tìm thấy ở những người cùng thời một bức trang lịch sử gần trăm năm với những âm hưởng lan tỏa cho đến ngày nay.
1137 lượt xem
Sinh hoạt nghệ thuật dân gian Hà nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Từ rất xa xưa, trong lịch sử ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, những lễ hội dân gian như hội Đền Gióng, hội Đền Cổ Loa, hội Đền Hai Bà đã được các vương triều phong kiến Việt Nam nâng lên thành quốc lễ. Đồng thời, những loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian, từ múa rối đến hát chèo... cũng được chủ động kế thừa và phát triển. Văn hoá cung đình bắt nguồn từ văn hoá dân gian, rồi chính văn hóa cung đình lại góp phần nâng cấp, phát triển văn hóa dân gian. Sự kết hợp hài hòa, bện quyện, sự tồn tại song hành, đan xen giữa hai dòng văn hoá đó đã tạo nên một phức thể văn hóa nghệ thuật độc đáo trên mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Hầu hết những loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ đều có sự hiện diện ở Thăng Long - Hà Nội. Vùng nông thôn rộng lớn (Kẻ Quê) bao quanh Kẻ Chợ chính là nơi lưu trữ, phát triển nền văn nghệ dân gian với những làn điệu dân ca độc đáo, đặc sắc. Rồi từ Kẻ Quê, các loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian này thâm nhập vào Kẻ Chợ, bồi đắp, làm phong phú thêm đời sống văn nghệ Thăng Long - Hà Nội. Và cũng chính tại đây, những nghệ sĩ của Thăng Long - Hà Nội đã đưa vào đó những nét riêng của mình, để rồi cũng là Ca trù, cũng là hát chầu văn, cũng là hát xẩm, cũng là hát chèo... nhưng được thể hiện trên mảnh đất Thăng Long - Hà Nội bởi những nghệ sĩ của Thăng Long - Hà Nội đã mang những dáng nét, bản sắc riêng độc đáo, trở thành Chiếng chèo cổ xứ Đoài, hát xẩm phố cổ Hà Nội...
741 lượt xem
Dạy con thời @
Đào Thúy Hoàn
Cuốn sách này chỉ dành cho những người tâm huyết việc nuôi dạy trẻ, các bậc cha mẹ và người có trách nhiệm nuôi dạy trẻ em thực sự muốn lớp mầm non sau này lớn lên sẽ trở thành những người tốt, có bản lĩnh, tư duy tốt, có trí tuệ, độc lập, nhân đức, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và tập thể, không chỉ tự lo được cho bản thân mà phải có hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, có tình yêu thương nhân loại, có ý thức đóng góp cho đất nước, cộng đồng, xã hội và hòa bình thế giới. Cuốn sách này chỉ dành cho những người muốn con trẻ độc lập và mạnh mẽ như những cánh chim đại bàng không khuất phục trước dông bão cuộc đời. Cuốn sách này không dành cho những cha mẹ giao phó phần lớn việc chăm sóc con cho ông bà hay người giúp việc, không dành cho những cha mẹ thương con bằng cách làm hết mọi việc để con tập trung vào học mấy môn văn hóa, cũng không dành cho những cha mẹ muốn sắp xếp cuộc đời con bằng tiền bạc để sau này dùng tiền xin cho con vào chỗ ngon cho ổn định và càng không dành cho những cha mẹ chỉ mải việc của mình để con tự phát triển như cây cỏ tự nhiên. Khi bạn cầm trên tay cuốn sách này, bạn đã gia nhập vào cộng đồng những người thực sự quan tâm đến con cái, đến hạnh phúc gia đình mình, tương lai của gia đình, đất nước và xã hội. Xin chúc mừng bạn!
1883 lượt xem
Lễ hội Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Lễ hội cổ truyền là một đặc trưng của văn hoá người Việt, là nhu cầu không thể thiếu được trong tư duy và sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân. Trong đời sống người Việt, lễ hội là biểu hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, với thần thánh và cộng đồng. Mỗi người có thể tìm thấy cho chính mình sự hồn nhiên tươi trẻ, niềm hưng phấn nghệ thuật, những xúc cảm chất phác, thơ ngây khi tự nguyện tham gia vào lễ hội. Lễ hội cũng được coi là một trong những nguồn sữa mẹ của các loại hình nghệ thuật. Lễ hội hỗn dung các tầng văn hoá trong tiến trình lịch sử, đồng thời bảo lưu, nuôi dưỡng và phát triển nhiều truyền thống văn hoá của cộng đồng, của dân tộc. Hà Nội là một đô thị cổ, nhưng cội nguồn sâu xa hơn cũng chính là một làng quê ven sông Nhị. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Thăng Long - Hà Nội trở thành vùng đất văn vật văn hiến - một miền hội hè phong phú. Lễ hội Hà Nội vừa có nét đặc trưng đô thị, vừa thấm đượm những phong vị của làng quê, mang dáng dấp của truyền thống và nguồn cội. Lễ hội Hà Nội vừa phong phú, đa dạng, vừa hấp dẫn, lôi cuốn vô cùng. Hà Nội có hàng ngàn lễ hội, trải suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, từ tháng Giêng đến tháng Chạp, từ đỉnh Ba Vì chon von đến dải đất thơ mộng ven hồ Tây quanh năm lộng gió. Qua năm tháng, lễ hội đã ăn sâu, bén rễ, hội tụ và lan tỏa các giá trị văn hóa trên mảnh đất cổ kính và linh thiêng, trở thành một phần không thể thiếu của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm tuổi.
1344 lượt xem
Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc
Bộ Thông tin và Truyền thông

Việt Nam được ví như “bảo tàng tín ngưỡng, tôn giáo thế giới”, đời sống tín ngưỡng của người dân đa dạng, phong phú. Sự đa dạng của tín ngưỡng dân tộc qua các loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng thờ vua Hùng, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Tín ngưỡng phồn thực… Mặc dù các tín ngưỡng có nguồn gốc hình thành, phát triển khác nhau; nội dung, nghi lễ khác nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, các tín ngưỡng luôn có sự gắn kết, giao thoa với nhau để cùng tồn tại, phát triển trong một quốc gia, dân tộc. Các tín ngưỡng dân tộc mang những đặc điểm cơ bản như đa thần, bình đẳng, dân chủ, giàu chất nhân văn, hỗn dung tôn giáo.
Những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc đã góp phần tạo nên nét đẹp trong tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền tải những giá trị nhân văn của dân tộc như đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần cố kết cộng đồng… Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân tộc cũng đang bị lợi dụng ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng, làm suy giảm, mai một các giá trị nhân văn của các tín ngưỡng, lễ hội truyền thống. Nhiều vấn đề đặt ra từ sự tác động của một số xu hướng biến đổi tín ngưỡng đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền - Nguyễn Thị Hiệp biên soạn, xuất bản cuốn sách “Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc”.
Từ việc nghiên cứu thực trạng xu hướng biến đổi của các tín ngưỡng dân tộc trước sự tác động của quá trình hội nhập, cách mạng công nghệ, công nghiệp hóa, đô thị hóa… Và những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc trong điều kiện mới. Qua đó đề xuất nhóm giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của các tín ngưỡng dân tộc trong tiến trình bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong điều kiện mới hiện nay.

891 lượt xem
Mỹ thuật Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, mỹ thuật dân gian Hà Nội đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các tác phẩm điêu khắc được tạo tác ở các chùa, đình, đền Hà Nội, hay những bức tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng độc đáo thể hiện những dấu ấn lớn của mỹ thuật dân gian Thăng Long - Hà Nội nói riêng và mỹ thuật dân gian Việt Nam nói chung, phản ánh được tính cách và tâm hồn người Hà Nội xưa, bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa to lớn trong nhiều mặt của cuộc sống. Đến thời kỳ cận đại và hiện đại, mỹ thuật hiện đại Hà Nội với những con người Hà Nội mới, từ các hoạ sĩ tự học đến các họa sĩ ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từ các nghệ nhân dân gian đến những nghệ sĩ được đào tạo bài bản, đã không ngừng tiếp thu phương pháp khoa học tạo hình của Mỹ thuật phương Tây (được coi là một cơ sở khoa học xây dựng hình tượng nghệ thuật) và kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình truyền thống trong sáng tác mỹ thuật, đã làm chủ nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, lụa, tranh khắc, không ngừng sáng tạo các tác phẩm mỹ thuật trong dòng chảy chung của nghệ thuật. Mỹ thuật Hà Nội đã phản ánh được cái đẹp về hình ảnh cuộc sống, phong tục, tập quán của người Hà Nội, vẻ đẹp con người Hà Nội, với đầy đủ phẩm chất nghệ thuật và mang một bản sắc văn hoá tạo hình có nhiều nét riêng biệt. Nhiều tài năng bậc thầy, với nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo của Mỹ thuật Hà Nội đã góp phần tạo nên một diện mạo chung của nền mỹ thuật Việt Nam. Đồng thời, mỹ thuật Hà Nội là nơi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa truyền thống dân tộc, nơi ghi danh những bậc thầy của hội hoạ - điêu khắc Việt Nam hiện đại với những bản sắc độc đáo của mình.
861 lượt xem