Văn hóa - Xã hội
Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thủ đô Hà Nội là trung tâm của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc. Ít có nơi nào lưu giữ được nhiều chứng tích lịch sử như thành phố Hà Nội. Nơi đây, mỗi địa danh, mỗi đường phố đều gắn với các sự tích, chiến công của ông cha. Những địa danh như Cổ Loa, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình... chứa đựng những dấu ấn, ghi nhớ những chặng đường lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí bất khuất và tài năng của nhân dân Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Một nét kiến trúc Chùa Một Cột, tổng hòa không gian Văn Miếu - Quốc Tử Giám... đều góp phần làm rạng rỡ truyền thống lịch sử - văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là chứng tích vô giá của truyền thống ngàn năm văn vật, là viên ngọc quý, là cổ vật thiêng liêng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là biểu tượng của sức sống nội tại, được dựng xây từ mồ hôi công sức và cả xương máu của lớp lớp thế hệ người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Đó là những tảng đá nền kê chân cột để tạo dựng tòa nhà cao vững, vừa là bằng sắc để minh chứng cho quá khứ huy hoàng, vừa là di sản quý giá, là nét vàng son của phẩm chất đặc trưng cho con người Hà Nội, con người Việt Nam, vừa là linh hồn truyền tải những giá trị thiêng liêng của mảnh đất ngàn năm văn vật. Thăng Long - Hà Nội sắp bước qua tuổi ngàn năm. Thăng Long - Hà Nội có hàng ngàn di tích lịch sử - văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa chính là một cây cầu kết nối Thăng Long xưa với Hà Nội nay, nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai. Yêu Thăng Long - Hà Nội, trân trọng di sản của ông cha, trước hết và hơn hết là yêu, trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
2485 lượt xem
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong vùng công viên địa chất Lạng Sơn
PGS. TS. Vương Toàn, Nguyễn Phúc Hà

Lạng Sơn, vùng phên giậu phía đông bắc của Tổ quốc, sở hữu cảnh quan hùng vĩ và nền văn hóa đa dạng, là nơi hình thành Công viên địa chất Lạng Sơn nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản đặc sắc của tỉnh. Từ hội thảo khoa học về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể năm 2022, nhóm tác giả đã tập hợp các nghiên cứu để biên soạn cuốn “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong vùng Công viên địa chất Lạng Sơn”. Cuốn sách góp phần khẳng định giá trị của vùng di sản này trong chiến lược phát triển bền vững theo các định hướng của Chính phủ và tinh thần Tuyên ngôn UNESCO về đa dạng văn hóa.

398 lượt xem
Danh Thắng Hà Nội (Test)
Hà Nguyễn

Hà Nội có một sức quyến rũ kỳ lạ đối với người xa đến. Ở chốn xa xôi nào đó, nơi hang cùng xóm vắng hay rừng sâu núi thẳm, phương trời Tây hay phương trời Nam, chiều chiều vẫn có những người ngóng về một phương trời để cố trông cái ánh sáng mờ của Hà Nội chiếu lên nền mây, để mong mỏi một ngày được bước chân trên những đường phố cũ, thưởng ngoạn, khám phá những danh thắng của đất đế đô 1000 năm tuổi.

932 lượt xem
Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045
Australian Embassy Vietnam-Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Trung tâm Việt- Úc(VAC) Vietnam Australia Centre

Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045

Việt Nam: 40 năm đổi mới và tầm nhìn 2045

823 lượt xem
Văn hóa truyền thống của người Cơ Ho
Hoàng Tuấn Cư, Hoàng Kim Ngọc

Nội dung cuốn sách được biên soạn công phu, phác họa một bức tranh tương đối toàn diện về tộc người Cơ-ho – cộng đồng cư dân chủ yếu sinh sống tại Lâm Đồng – cùng những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của họ. Người Cơ-ho gắn bó sâu sắc với nông nghiệp trồng lúa, thể hiện qua hệ thống lễ hội tạ ơn thần lúa như lễ gieo sạ, lễ cúng dưỡng lúa, lễ mừng lúa mới…, cũng như các nghi lễ cầu mùa như lễ cầu mưa hay lễ cúng bến nước. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ còn được làm phong phú bởi kho tàng văn học nghệ thuật dân gian giàu nhạc tính, trữ tình và độc đáo.

897 lượt xem
Tiền giấy Việt Nam - Biểu tượng và bản sắc văn hóa
Phạm Thị Liên

Trong các công trình nghiên cứu về đồng tiền Việt Nam nói chung và tiền giấy Việt Nam nói riêng, công trình này đóng góp một phần nhất định trong việc hệ thống hóa tư liệu về biểu tượng văn hóa trên tiền giấy Việt Nam, luận giải ý nghĩa của 03 biểu tượng văn hóa chính gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước và có sự tiếp biến trong giai đoạn cận hiện đại. Bên cạnh đó, cuốn sách góp phần nâng cao nhận thức chung của xã hội và quảng bá giá trị văn hoá của tiền giấy Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

1445 lượt xem
Món ngon Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Nói đến hương và vị của món ăn Việt Nam, trước hết phải nói đến món ngon Hà Nội. Chính chiều dài lịch sử, bề dày văn hoá của mảnh đất rồng thiêng ngàn năm đã góp phần quan trọng hình thành khẩu vị của người Hà Nội. Hà Nội là nơi hội tụ của bốn phương, mang chứa tinh hoa hương vị, khẩu vị của mọi vùng, mọi xứ. Các món quà từ khắp nơi được mang về Hà Nội, được kiểm định, tôn vinh và gìn giữ trên chính mảnh đất này. Cái ngon ở Hà Nội dào dạt những hương vị hồn quê ấy. Mấy bìa đậu phụ Mơ mềm mại, ngọt mát; Một bát phở bò nghi ngút; Mấy cặp chả cá thơm lừng; Bát canh cá rô Đầm Sét; Chén rượu tim rắn ấm nồng; Đĩa giò Ước Lễ mềm đậm; Vài phong bánh cốm trong ngày cưới; Bánh cuốn Thanh Trì, bánh cốm Hàng Than, bánh tôm Hồ Tây, bánh chè lam Thạch Xá, bánh dợm Phú Nhi, bánh đa Sủi, bánh dày Quán Gánh... đượm chút gì rất tinh tế, ý vị trong thú ẩm thực đất Kinh kỳ. Tất cả tạo nên một phong vị rất riêng của ẩm thực đất Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến.
1984 lượt xem
Lễ hội truyền thống dân tộc Tày ở Lạng Sơn
Hoàng Tuấn Cư, Đỗ Trí Tú

Lễ hội truyền thống là kết tinh của bản sắc văn hóa các dân tộc xứ Lạng, nơi hội tụ những giá trị lịch sử, tín ngưỡng và nghệ thuật được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với sự đa dạng của cộng đồng Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông…, Lạng Sơn hình thành một không gian văn hóa phong phú, trong đó lễ hội giữ vai trò trung tâm, phản ánh toàn diện đời sống xã hội và tinh thần của cư dân bản địa. Trước tác động của hiện đại hóa và công nghệ số, nhu cầu gìn giữ, nghiên cứu và phát huy lễ hội truyền thống càng trở nên cấp thiết, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa và cội nguồn cộng đồng. Từ khảo sát thực tiễn và tư liệu nghiên cứu, cuốn sách “Lễ hội truyền thống dân tộc Tày ở Lạng Sơn” được biên soạn nhằm giới thiệu những giá trị tiêu biểu nhất của lễ hội người Tày trong bức tranh văn hóa Đông Bắc Việt Nam.

931 lượt xem
Hanoi cultural and historical relics
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Hanoi is the capital and center of the entire country, where all cultural values and quintessences of the nation have been converged. It is hard to find any place that is as rich in historical relics as Hanoi. It is here where every single location or street is associated with legends and triumphs of the ancestors and previous generations. Such sites as Co Loa, Hoan Kiem, Dong Da, Ba Dinh contain in themselves historical events, important periods, and reflect invincible strength and talents of Vietnamese people throughout the history of thousand years of national buiding. Just a feature in the architecture of One Pillar Pagoda, or the ambiance of Temple of Literature could brighten the thousand-year historical and cultural tradition of Vietnam. Historical and cultural relics of Hanoi are invaluable evidences of our thousand-year civilization. They constitute themselve as precious pearls and sacred artifacts of the Thang Long - Dong Do - Ha Noi. They represent internal vitality that has been built up from sweat and blood of numerous generations of Vietnamese people in general and Hanoians in particular. They are solid foudation to build a stable high rise which eyewitness our heroic and glorious past. Being not only valuable heritages, they also speak for the fine features of Hanoians and Vietnamese people and reflect the souls that imbued sacred values of thousand-year civilised lavel. Thang Long - Hanoi is about to celebrate its 1000th anniversary. There are also thousands of historical and cultural relics, which serve as a bridge between old Thang Long in the past and Hanoi at the present, linking the past, the present and the future. To love Thang Long - Hanoi and respect our ancient heritage, first and foremost one should show his/her love, respect for and promote the values of historical and cultural relics of Thang Long - Hanoi.
1024 lượt xem
Tự hào một giải biên cương -  Các tác phẩm đoạt giải cuộc thi và triển lãm ảnh nghệ thuật cấp quốc gia năm 2022
Ban Tuyên giáo Trung ương

Nhằm tiếp tục đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, quảng bá về vẻ đẹp, tiềm năng của các tuyến biên giới quốc gia trên đất liền đến đông đảo công chúng trong và ngoài nước, đồng thời giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thiết thực hướng tới chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức Cuộc thi ảnh nghệ thuật với chủ đề “Tự hào một dải biên cương”.

Qua 5 tháng phát động cuộc thi, Ban Tổ chức đã nhận được: 4.477 tác phẩm dự thi (4.078 ảnh đơn; 399 bộ ảnh, mỗi bộ ảnh gồm 5-8 ảnh đơn) của 745 tác giả, đến từ 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước gửi về. Hội đồng giám khảo đã làm việc khách quan, công tâm, trách nhiệm để chọn ra: 2 giải Nhất, 3 giải Nhì, 6 giải Ba, 10 giải Khuyến khích; trưng bày triển lãm 197 tác phẩm. Để các tác phẩm ảnh “Tự hào một dải biên cương” được lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội cũng là cơ hội tôn vinh các tác giả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp từ mọi miền Tổ quốc, kiều bào ở nước ngoài, người nước ngoài đang công tác và sinh sống tại Việt Nam, Ban Tổ chức cuộc thi phối hợp với Nhà xuất bản Thông tấn biên soạn, xuất bản cuốn sách ảnh “Tự hào một dải biên cương”.

Cuốn sách khắc họa vẻ đẹp quê hương, đất nước, con người ở các vùng biên giới trên đất liền, từ “Sắc màu biên cương”, “Mùa xuân ở Lao Xa”, “Mùa vàng nơi biên ải”, “Bình minh miền biên viễn” đến “Độc đáo lễ hội đua bò ở vùng biên”, “Mùa nước nổi ở biên giới An Giang”, “Lễ cấp sắc của người Dao Đỏ”...

Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, hòa bình, phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới trên đất liền được khẳng định qua những hình ảnh về hoạt động giao thương với nước bạn tại các cửa khẩu, những cuộc giao lưu thắm tình hữu nghị nơi biên cương và các cuộc phối hợp tuần tra biên giới song phương giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Đặc biệt, cuốn sách dành những hình ảnh đẹp, xúc động ghi nhận và tôn vinh những đóng góp, hy sinh của các thế hệ người Việt Nam, nhất là các lực lượng vũ trang trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Xuất bản cuốn sách, chúng tôi mong muốn lan tỏa những cảm xúc chân thành, vẹn nguyên và sâu sắc từ những bức ảnh tới công chúng yêu nghệ thuật Việt Nam; khẳng định thắng lợi của những chủ trương, đường lối và những nỗ lực, thành tựu của Đảng, Nhà nước, của các địa phương đặc biệt là các địa phương khu vực biên giới trong việc xây dựng tuyến biên giới quốc gia trên đất liền, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam tới bạn bè quốc tế.

1764 lượt xem
Mỹ thuật Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, mỹ thuật dân gian Hà Nội đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các tác phẩm điêu khắc được tạo tác ở các chùa, đình, đền Hà Nội, hay những bức tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng độc đáo thể hiện những dấu ấn lớn của mỹ thuật dân gian Thăng Long - Hà Nội nói riêng và mỹ thuật dân gian Việt Nam nói chung, phản ánh được tính cách và tâm hồn người Hà Nội xưa, bảo tồn các giá trị lịch sử - văn hóa to lớn trong nhiều mặt của cuộc sống. Đến thời kỳ cận đại và hiện đại, mỹ thuật hiện đại Hà Nội với những con người Hà Nội mới, từ các hoạ sĩ tự học đến các họa sĩ ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từ các nghệ nhân dân gian đến những nghệ sĩ được đào tạo bài bản, đã không ngừng tiếp thu phương pháp khoa học tạo hình của Mỹ thuật phương Tây (được coi là một cơ sở khoa học xây dựng hình tượng nghệ thuật) và kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo hình truyền thống trong sáng tác mỹ thuật, đã làm chủ nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, lụa, tranh khắc, không ngừng sáng tạo các tác phẩm mỹ thuật trong dòng chảy chung của nghệ thuật. Mỹ thuật Hà Nội đã phản ánh được cái đẹp về hình ảnh cuộc sống, phong tục, tập quán của người Hà Nội, vẻ đẹp con người Hà Nội, với đầy đủ phẩm chất nghệ thuật và mang một bản sắc văn hoá tạo hình có nhiều nét riêng biệt. Nhiều tài năng bậc thầy, với nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo của Mỹ thuật Hà Nội đã góp phần tạo nên một diện mạo chung của nền mỹ thuật Việt Nam. Đồng thời, mỹ thuật Hà Nội là nơi hội tụ và tỏa sáng tinh hoa truyền thống dân tộc, nơi ghi danh những bậc thầy của hội hoạ - điêu khắc Việt Nam hiện đại với những bản sắc độc đáo của mình.
2133 lượt xem
Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc
Bộ Thông tin và Truyền thông

Việt Nam được ví như “bảo tàng tín ngưỡng, tôn giáo thế giới”, đời sống tín ngưỡng của người dân đa dạng, phong phú. Sự đa dạng của tín ngưỡng dân tộc qua các loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng thờ vua Hùng, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Tín ngưỡng phồn thực… Mặc dù các tín ngưỡng có nguồn gốc hình thành, phát triển khác nhau; nội dung, nghi lễ khác nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, các tín ngưỡng luôn có sự gắn kết, giao thoa với nhau để cùng tồn tại, phát triển trong một quốc gia, dân tộc. Các tín ngưỡng dân tộc mang những đặc điểm cơ bản như đa thần, bình đẳng, dân chủ, giàu chất nhân văn, hỗn dung tôn giáo.
Những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc đã góp phần tạo nên nét đẹp trong tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền tải những giá trị nhân văn của dân tộc như đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần cố kết cộng đồng… Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân tộc cũng đang bị lợi dụng ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng, làm suy giảm, mai một các giá trị nhân văn của các tín ngưỡng, lễ hội truyền thống. Nhiều vấn đề đặt ra từ sự tác động của một số xu hướng biến đổi tín ngưỡng đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền - Nguyễn Thị Hiệp biên soạn, xuất bản cuốn sách “Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc”.
Từ việc nghiên cứu thực trạng xu hướng biến đổi của các tín ngưỡng dân tộc trước sự tác động của quá trình hội nhập, cách mạng công nghệ, công nghiệp hóa, đô thị hóa… Và những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc trong điều kiện mới. Qua đó đề xuất nhóm giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của các tín ngưỡng dân tộc trong tiến trình bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong điều kiện mới hiện nay.

2189 lượt xem
Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới
Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới

1034 lượt xem
85 Chân dung Văn hóa, Văn chương Việt - Tập 1
GS. Phong Lê

Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”, và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội. 

Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp. 

Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập. 

Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh. 

Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được. 

m 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.

Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.

1387 lượt xem
Cộng đồng tộc người khu vực Bắc Bộ
Chu Thái Sơn

Vùng núi Bắc Bộ nhìn dưới lăng kính địa lý nhân văn, được chia làm hai miền Đông và Tây, dòng sông Cái - sông Hồng là ranh giới tự nhiên. Theo đó, miền Đông Bắc bao gồm 6 tỉnh, gọi tắt là Cao - Bắc (nay là tỉnh Thái Nguyên) - Lạng - Thái - Tuyên - Hà (nay là tỉnh Tuyên Quang). Miền Tây Bắc hiện nay cũng gồm có 6 tỉnh là: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái (nay là tỉnh Lào Cai), Sơn La và Hòa Bình (nay là tỉnh Phú Thọ).

Nói đến vùng núi Bắc Bộ cũng không thể không lưu ý đến miền trung du liền kề ngay phía nam địa bàn này. Đó là vùng đệm, nối liền giữa miền núi và khu vực đồng bằng sông Hồng. Trên bình diện cả vùng núi Bắc Bộ có đến 26 tộc người sống cận cư và xen cư với nhau. Vì thế, lãnh thổ tộc người khá mờ nhạt, mang tính lịch sử và mang tính tương đối như hiện nay. Mỗi miền Đông hoặc Tây đều có những đặc trưng về tự nhiên và văn hóa - xã hội riêng. Dòng sông Lô phát nguyên từ Bàn Long Giang ở Trung Hoa chảy qua Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang), có chi nhánh lớn là sông Gâm chảy qua Tuyên Quang. Tại Lạng Sơn có sông Kỳ Cùng. Sông Hồng chảy qua Lào Cai và Phú Thọ rồi đổ dòng vào Hà Nội. Sông Đà từ Lai Châu, Sơn La đổ dòng vào hồ Sông Đà ở Hòa Bình (nay là tỉnh Phú Thọ).

Cả vùng núi và trung du Bắc Bộ từ lâu đã trở thành cái nôi ngưng tụ các luồng di dân từ miền Nam Trung Quốc xuống và từ miền tây sang. Tộc người với số đông vượt trội và là cư dân chủ thể tại miền Đông Bắc có các tộc Tày, Nùng. Họ tiếp thu sâu đậm văn hóa miền Nam Trung Quốc; đời sống tâm linh theo Nho - Phật - Đạo; đẩy mạnh nông nghiệp trồng lúa nước, phát triển thủ công nghiệp, mở chợ phiên ở từng vùng để mua bán định kỳ.

Tộc người có số đông vượt trội và là cư dân chủ thể tại miền Tây Bắc là tộc người Thái có ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Nhưng ở phía nam sông Đà là tộc người Mường. Họ đều theo tín ngưỡng cổ truyền với tâm thức vạn vật hữu linh, thờ cúng đa thần nguyên thủy.

Về thành phần tộc người ở mỗi miền Đông và Tây nói trên, trong số 26 tộc người cư trú sớm hoặc muộn tại vùng núi Bắc Bộ, có tới 9 tộc người phân cư ở cả hai miền Đông và Tây. Cùng với người Tày, có số lượng dân cư đáng kể ở cả hai miền là người Mông, Dao, Sán Chay, Nùng, Giáy. Số ít có người Phù Lá, Lô Lô và Bố Y. Trên miền Đông Bắc chỉ có 4 tộc người dân số ít đều không có bộ phận nào sinh sống ở miền Tây. Đó là các nhóm La Chí, Pà Thẻn, Cờ Lao và Pu Péo. Trái lại, trên miền Tây Bắc Bắc Bộ có đến 13 tộc người, có dân số đông như: Thái, Mường, Khơ Mú, Xinh Mun. Dân số ít hơn có các tộc: Hà Nhì, Kháng, La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, v.v… đều vắng bóng trên miền Đông Bắc.

Những tộc người ở vùng núi Bắc Bộ đều được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới ở đây theo thứ tự dân số dựa vào kết quả của cuộc tổng điều tra năm 2019. Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những sai sót, mong nhận được những góp ý chân thành của bạn đọc.

849 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Hợp tác hữu nghị và phát triển
TS Nguyễn Thành Văn

Cách đây nửa thế kỷ, vào ngày 24/6/1967, Việt Nam và Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự kiện chính trị trọng đại này là một mốc son trong lịch sử mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống gắn bó nhân dân hai nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi dân tộc. Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng nằm trên bán đảo Đông Dương, có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó. Tuy vậy, quan hệ giữa hai nước cũng có những thăng trầm nhất định tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cũng như chính sách đối ngoại của mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Nhưng trên hết, có thể khẳng định, trải qua nửa thế kỷ, quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác giữa Việt Nam và Campuchia luôn được vun đắp và đã đạt được nhiều thành tựu trên hầu hết các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng… Đây là cơ sở, nền tảng vững chắc để hai nước tiếp tục phát huy trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai với phương châm “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Được sự đồng ý của Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã kịp thời phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các chuyên gia nghiên cứu về Đông Nam Á biên soạn, xuất bản Bộ sách gồm 05 cuốn nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Campuchia (1967 - 2017), đó là: 1. Chính sách đối ngoại trung lập của Campuchia giai đoạn 1953 - 1970 2. Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia: Thực trạng và triển vọng 3. Quan hệ Việt Nam - Campuchia từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay 4. Việt Nam - Campuchia: Hợp tác hữu nghị và phát triển 5. 50 năm quan hệ Việt Nam - Campuchia: Thành tựu và triển vọng

1788 lượt xem