Văn hóa - Xã hội
Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia)
GS.TS. Lê Hữu Nghĩa

Cuốn sách "Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia)" góp phần nghiên cứu sâu sắc và nâng cao nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời lan tỏa những giá trị của cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng".

400 lượt xem
Les fêtes du Phù Đổng - Une bataille céleste dans la tradition Vietnamiene
Nguyễn Văn Huyên
Il me semble qu’aucun Vietnamien n’ignore la légende de Thanh Giong (Génie Giong). Transmise oralement de génération en génération, citée dans les manuels scolaires, elle est devenue une œuvre littéraire immortelle. Thanh Giong est le sujet de nombreuses oeuvres d’art. Ce héros mythique national a éveillé l’imagination de générations de Vietnamiens. Cependant, ils ne savent pas tous que Thanh Giong est un génie tutélaire vénéré par une dizaine de villages du delta du Fleuve Rouge. Non loin de Hanoi, dans les villages de Phu Dong du district de Gia Lâm et de Vê Linh du district de Soc Son, Thanh Giong est le sujet de fêtes villageoises, les Fêtes de Giong, qui se déroulent autour des temples de Phu Dong et de Soc. Ces fêtes annuelles présentent des symboles et des scènes théâtrales vivantes inspirées de la légende de ce héros. Elles ont lieu dans une ambiance de respect et de ferveur religieuse très populaire. C’est grâce à ces fêtes que l’immortalité de la légende est assurée. En même temps, elles répondent à d’authentiques demandes spirituelles des habitants. Pour ces raisons essentielles, l’UNESCO a classé les fêtes de Giong au patrimoine immatériel de l’Humanité. L’actuelle fête de Giong du village de Phu Dong a connu bien des changements. A partir d’août 1945, durant les 11 années de résistance contre les Français qui ont suivi, cette fête n’a pas été organisée. Après Dien Bien Phu, elle n’a eu lieu que trois fois, en 1956, en 1957 et en 1958. Puis elle a connu de nouveau une rupture pendant plus de 20 ans. En 1980, pour la première fois après plus de 30 ans d’interruption, elle revit, de manière très sommaire cependant; de nombreux symboles, tels les “Gardes du corps” et les “Généraux”, ainsi que les scènes qui leur sont rattachées, n’y figurent pas. Sur les deux “combats”, un seul, celui de Soi Bia, est représenté. Il faut attendre l’année 1995 pour que la grande fête soit à nouveau organisée. Auparavant, la fête de Giong du village de Phu Dong durait sept jours, selon un programme strict d’activités soigneusement consignées dans le “cahier des fêtes” du village. Malheureusement, ce cahier a disparu durant la guerre. En 1998, un nouveau programme de fête de 3 jours a été établi d’après les souvenirs des personnes âgées des villages. Actuellement, sous la direction des autorités et des services de la culture, les villageois ont décidé de raccourcir leur fête qui dure désormais de 3 à 4 jours, adaptée au programme condensé de 1998. Heureusement, l’ethnologue Nguyen Van Huyen a assisté, en 1937 et en 1938, à la fête de Giong, au village de Phu Dong. En 1938, il a publié deux ouvrages à partir de ses riches observations des jours de fête, minutieuses monographies sur les représentations théâtrales et les symboles d’une bataille mystique Toutes les versions des chants d’Ailao ont été soigneusement retranscrites puis publiées en 1941. De plus, des photographies documentaires, en noir et blanc, imprimées dans les deux premiers ouvrages montrent de façon très vivante la fête de Giong de l’époque. Ce sont des documents rares sur cet héritage original. Ils permettent de mieux comprendre les fêtes de Giong au début du 20ème siècle. À l’occasion de la première organisation des fêtes de Giong après leur classement par l’UNESCO, nous avons l’honneur de présenter ces deux précieux ouvrages. Ils ont été rédigés en français. Leur première version vietnamienne a été publiée en 1995 dans un recueil du professeur Nguyen Van Huyen intitulé Contribution à la recherche des cultures du Vietnam qui a reçu le prix Ho Chi Minh. Dans l’esprit de respect des textes originaux ainsi que du contexte historique, tous les lieux-dits, les termes et les appellations y sont reproduits tels quels. La traduction vietnamienne présente, sans doute, des erreurs, vos critiques et suggestions sont toujours bienvenues.
653 lượt xem
Văn hóa Việt Nam truyền thống - Một góc nhìn
Nguyễn Thừa Hỷ
Trong những thập kỷ gần đây, trên hành tinh của chúng ta, những thuật ngữ “văn hóa”, “văn minh”, “truyền thống”, “văn hóa truyền thống” đã trở thành những từ khóa phổ biến mang tính thời thượng, được nhiều người quan tâm và nhắc đến trong cuộc sống và các phương tiện truyền thông. Đó là một điều có ý nghĩa và có thể hiểu được. Có lẽ trong cuộc sống thường ngày, chúng ta bị cuốn hút vào vòng xoáy của những lo toan và ganh đua kinh tế, lợi danh, mà đã lãng quên đi hoặc không còn thời giờ để dành cho việc suy nghĩ và chăm sóc đời sống tinh thần. Cái hiện tại cũng đang đè nặng lên những hành xử, choán hết không gian suy tư của con người, không còn chỗ đứng cho những hồi tưởng quá khứ. Mặt khác, nhìn rộng ra trên phạm vi toàn cầu, chúng ta đang đối diện với một thách thức là những va chạm xung đột giữa các nền văn minh, văn hóa đang tồn tại, lúc âm ỉ, khi bột phát. Có lẽ, sở dĩ ý thức được như vậy, mà hiện nay nhân loại đang gióng lên những hồi chuông cảnh báo và kêu gọi về vấn đề văn hóa. Liên Hợp quốc, tổ chức UNESCO đã phát động Thập kỷ văn hóa, tổ chức năm Đối thoại những nền văn minh, ra nhiều nghị quyết, tuyên ngôn về đa dạng, đa nguyên và khoan dung văn hóa. Văn hóa là một lực lượng tinh thần, có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất, là ngọn nguồn, xung lực của phát triển xã hội. Tuy nhiên, văn hóa cũng có thể trở thành một lực cản kìm hãm và phá hoại lịch sử, đời sống con người với những hậu quả và tổn thất khó lường. Ở Việt Nam, trong vòng một thế kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều cuộc biến động, đổi thay, xáo trộn và đấu tranh văn hóa. Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, trước cơn lốc xoáy về tư tưởng, lối sống và hệ giá trị, chúng ta lại đang đứng giữa giao lộ của những ngã rẽ chưa có biển chỉ đường rõ ràng. Chúng ta đang được động viên, khích lệ, mà cũng đồng thời đang bị đe dọa, dối lừa bởi văn hóa. Trong một hoàn cảnh, tình huống đặc biệt như vậy, có lẽ một sự quay về, nhận diện và suy ngẫm nghiêm túc về nền văn hóa Việt Nam truyền thống sẽ là một điều bổ ích không thừa, nếu không muốn nói là cần thiết. Nền văn hóa truyền thống đã từng ngự trị hàng thiên niên kỷ trong một xã hội hầu như rất ít thay đổi, sau đó lại chịu những va đập và biến động lớn trong hơn một thế kỷ qua, đã có bộ mặt đích thực như thế nào, xu thế chuyển biến ra sao? Nó đã để lại cho chúng ta những giá trị gì cần phải kế thừa và những hệ lụy gì cần phải gạt bỏ? Có lẽ đó là những câu hỏi trăn trở mà người viết cố gắng tiếp cận khi đề ra mục đích khiêm tốn cho cuốn sách “Văn hóa Việt Nam truyền thống - Một góc nhìn”, mong đóng góp một phần nhỏ bé vào công việc chung to lớn. Tuy nhiên, gói gọn trong một vài trăm trang sách cả một nền văn hóa có hàng nghìn năm tuổi và trải ra trên một không gian xã hội rộng lớn nhiều vùng miền với nhiều đặc trưng khác biệt, quả thực là một điều không dễ dàng, đúng hơn là quá khó thực hiện. Các bộ thông sử thường ghi chép rất ít những tư liệu đời sống vật chất cũng như tinh thần. Các sách hiến chương và hội điển cũng chỉ cho biết thêm về những điển chế quan phương của nhà nước. Do đó, việc khảo cứu không thể không tìm đến những nguồn tư liệu khác, như văn hóa dân gian, dân tộc học và nhất là nguồn tài liệu thực địa “mắt thấy tai nghe” của những người nước ngoài. Điều “may mắn” là tốc độ chuyển biến của văn hóa truyền thống Việt Nam rất chậm, những hiện tượng văn hóa xảy ra ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX có thể cũng là những hình ảnh gần như trung thực của văn hóa, xã hội Việt Nam trong nhiều thế kỷ trước, do đó có thể coi là tư liệu gốc, những thông tin đương đại. Những thông tin này đã được ghi chép trong một số lớn sách báo của những tác giả người Pháp có mặt hoặc đã sống ở Việt Nam lúc bấy giờ. Vì vậy, người đọc sẽ có thể hiểu được và thông cảm vì sao, hình như tác giả cuốn sách có vẻ thiên vị khi sử dụng những tư liệu cổ nhiều hơn kim, trích dẫn những tác giả nước ngoài nhiều hơn các tác giả trong nước. Thực ra, những dữ kiện về văn hóa truyền thống của các tác giả lớn như Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên là những tư liệu cơ bản rất quý báu mà người viết cố gắng khai thác, tận dụng. Tuy nhiên, để tôn trọng tính đương thời nguyên dạng, những tư liệu đương đại - được hiểu là từ sau năm 1945 - của các tác giả trong nước và nước ngoài đã được sử dụng và trích dẫn ở mức độ hạn chế, trừ khi cần nêu lên những luận điểm kiến giải. Sau khi cung cấp những thông tin - đôi khi rất quen thuộc, bình thường đối với lớp người lớn tuổi, nhưng chưa chắc các bạn trẻ đã hiểu biết cặn kẽ, việc khó khăn hơn là tổng hợp, phân tích, đánh giá. Chúng tôi cố gắng thoát khỏi những định kiến giáo điều trong việc khen chê. Một hiện tượng có thể là tích cực về mặt này, ở thời điểm này, nhưng rất có thể lại trở thành tiêu cực ở khía cạnh khác, trong thời điểm khác và ngược lại. Bản thân một sự kiện văn hóa nhiều khi cũng mang tính hai mặt. Văn hóa Việt Nam truyền thống càng không phải là một khối đơn nguyên, thuần nhất, mà là một cấu trúc lai tạo, lưỡng nguyên đối trọng. Chúng tôi cho rằng việc có khen có chê không phải là một thái độ chiết trung thiếu ý kiến rõ ràng, mà là một phong cách tư duy phức hợp, khai mở, khoa học và biện chứng của những người làm công tác nghiên cứu hiện đại. Tất nhiên, mọi luận điểm đánh giá về những sự kiện khách quan của cá nhân tác giả vẫn chỉ là một góc nhìn chủ quan, có thể chưa thực thấu đáo, thậm chí sai sót. Nhưng khoa học chính là một tiến trình luôn luôn sửa sai để tiếp cận đến những cái ít sai hơn, trên con đường bất tận dò tìm chân lý. Hiểu biết kỹ lưỡng nền văn hóa truyền thống dân tộc, cũng như hiểu biết một người thân, với những nét đẹp và nét chưa đẹp, nết tốt và cả tật xấu, chính là cơ sở để yêu thương nhiều hơn, với một sự gắn bó bền vững hơn, mong muốn đi đến một sự hoàn thiện hơn. Điều ước muốn lớn nhất của tác giả khi viết cuốn sách cũng là như vậy. Tất nhiên, mọi tri thức, nhận thức muốn tiến đến gần sự thật, rất cần những ý kiến phản biện, tranh luận. Tác giả mong chờ những điều góp ý quý báu về cuốn sách của mọi bạn đọc gần xa.
1814 lượt xem
Phóng sự báo chí - Lý thuyết, kỹ năng và kinh nghiệm
TS. Nguyễn Quang Hòa
Bằng một cách nào đó, bạn đã có và bắt đầu đọc cuốn sách này, điều đó có nghĩa trong huyết quản của bạn đã có “máu” của một người viết phóng sự. Đây là cuốn sách được biên soạn để hỗ trợ việc giảng dạy môn Phóng sự báo chí cho sinh viên năm thứ ba, bên cạnh giáo trình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ở thời điểm này, sinh viên đã được học lịch sử báo chí, cách viết tin, quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí, làm quen với một số thể loại báo chí khác như Tường thuật, Ghi nhanh. Học nghề báo không thể chỉ nghe, đọc tài liệu mà rất quan trọng phần trao đổi, hướng dẫn của những người giàu kinh nghiệm trong quá trình thực hiện đề tài cụ thể. Bởi vậy, cuốn sách này ngoài cung cấp những kiến thức cơ bản về thể loại Phóng sự báo chí như: Hoàn cảnh lịch sử ra đời và phát triển của phóng sự, các dạng phóng sự, các quan niệm khác nhau về thể loại phóng sự cũng như các đặc điểm của thể loại này; những tố chất cần có của người viết; sách còn dành nhiều trang đề cập tới cách vượt qua những khó khăn khi tác nghiệp trong thực tế và cách thể hiện để bài viết sinh động, cuốn hút; cả những vấp váp của tác giả và những đồng nghiệp để bạn đọc tham khảo, sau này tránh lặp lại.
1797 lượt xem
Di sản Văn hóa phi vật thể các dân tộc tỉnh Lào Cai - Intangible cultural heritages of the ethnic minorities in Lào Cai province
Sở Văn hóa và Thể thao Tỉnh Lào Cai, Hà Văn Thắng (Chủ biên)

Được coi là vùng đất cổ, là cửa ngõ thông thương với vùng Tây Nam của Trung Quốc, Lào Cai độc đáo với cảnh quan tươi đẹp, núi non hùng vĩ, là nơi cư trú của nhiều dân tộc với 25 nhóm, ngành khác nhau, như: Mông, Dao, Tày, Giáy, Phù Lá, Hà Nhì, Kinh… Trải qua hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển, bằng tài năng sáng tạo của con người cùng với sự đa dạng về các thành phần dân tộc, Lào Cai đã có một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú về loại hình, độc đáo về bản sắc tộc người, với một hệ thống: tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; lễ hội truyền thống; phong tục tập quán; tri thức dân gian… 

Từ khi được tái lập năm 1991, với bộn bề những khó khăn trong công cuộc tái thiết nền kinh tế, xã hội còn  lạc hậu của một tỉnh miền núi nhưng các cấp, các ngành của tỉnh Lào Cai đã sớm chú trọng đến nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống các dân tộc. 

Thực hiện Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia giai đoạn 2011 - 2015; Ðề án số 13 của Tỉnh ủy về phát triển thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch số 126/KH-UBND ngày 28/10/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015; 

Kế hoạch số 126/KH-UBND ngày 28/10/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015; Ðề án số 8 của Tỉnh ủy Lào Cai về phát triển văn hóa, thể thao tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016 - 2020, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thành chương trình kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể của 25 nhóm, ngành dân tộc cư trú ở 500 thôn bản trên toàn tỉnh; lựa chọn và lập hồ sơ khoa học được 26 di sản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; trong đó 02 di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO ghi danh tại Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là: Nghi lễ và trò chơi kéo co Tày, GiáyNghi lễ Then của người Tày trong hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái”. 

Bảo tồn và phát huy tốt giá trị di sản văn hóa phi vật thể là cơ sở hình thành và tạo nên giá trị cốt lõi để phát triển các sản phẩm du lịch nhân văn độc đáo, góp phần đưa Lào Cai trở thành một địa phương được đông đảo bạn bè trong nước và ngoài nước biết đến, thu hút đông đảo du khách đến với Lào Cai. 

Trong những năm qua, Lào Cai luôn dẫn đầu các tỉnh phía Tây Bắc về số lượng khách du lịch. Năm 2019, lượng khách đến Lào Cai đạt gần 5 triệu lượt, doanh thu từ du lịch đạt 19.800 tỷ đồng, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. 

Có thể nói, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc của tỉnh Lào Cai trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ðể có được những kết quả này, ngoài sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự phối hợp thực hiện chặt chẽ của các sở, ngành, còn có sự chung tay của cộng đồng các dân tộc, của các nghệ nhân dân gian, những người am hiểu sâu sắc về vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Di sản văn hóa sẽ mãi tồn tại và phát triển, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ hội nhập.

554 lượt xem
Tiền giấy Việt Nam - Biểu tượng và bản sắc văn hóa
Phạm Thị Liên

Trong các công trình nghiên cứu về đồng tiền Việt Nam nói chung và tiền giấy Việt Nam nói riêng, công trình này đóng góp một phần nhất định trong việc hệ thống hóa tư liệu về biểu tượng văn hóa trên tiền giấy Việt Nam, luận giải ý nghĩa của 03 biểu tượng văn hóa chính gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước và có sự tiếp biến trong giai đoạn cận hiện đại. Bên cạnh đó, cuốn sách góp phần nâng cao nhận thức chung của xã hội và quảng bá giá trị văn hoá của tiền giấy Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

584 lượt xem
Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn những bài học kinh nghiệm chủ yếu
GS.TS. Lê Hữu Tầng

Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một công trình nghiên cứu công phu, mang tính hệ thống và khái quát, có những kiến giải mới, góp phần làm sáng tỏ một phương diện của chủ nghĩa xã hội hiện còn ít được nghiên cứu - phương diện chủ nghĩa xã hội đi từ lý luận đến thực tiễn, từ đó rút ra một số bài học kinh nghệm bổ ích cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhân dân ta đang tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng.

755 lượt xem
Quản lý Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt vùng Đông Bắc trong phát triển du lịch hiện nay
TS. Hà Thúy Mai

Nghiên cứu về các Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vùng Đông Bắc nhằm tạo cơ sở cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích này trong mối liên hệ với nhau gắn với phát triển du lịch hiện nay. Đánh giá những thành tựu cũng như hạn chế trong công tác quản lý các di tích này, từ đó đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong phát triển du lịch hiện nay. Cuốn sách Quản lý Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vùng Đông Bắc trong phát triển du lịch hiện nay góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị cao đẹp, trường tồn của di tích lịch sử cách mạng hào hùng, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp tới đông đảo nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.

603 lượt xem
Sa Pa - Sương và đá (Sa Pa - Fog and Rocks)
Sở Văn hóa và Thể thao Tỉnh Lào Cai

Sa Pa nằm ở phía tây của tỉnh Lào Cai, phía bắc giáp huyện Bát Xát, phía nam giáp huyện Văn Bàn, phía đông giáp thành phố Lào Cai và huyện Bảo Thắng, phía tây giáp huyện Tam Đường và huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Lai Châu. Người địa phương gọi vùng đất này là Sa Pả (có nghĩa là bãi cát).

Mùa đông năm 1903, đoàn khảo sát trắc địa của quân đội Pháp phát hiện ra vẻ đẹp của cao nguyên Lồ Súi Tổng. Đến năm 1905, bản vẽ về cao nguyên Lồ Súi Tổng và đỉnh cao Phan Xi Păng đã được xác định. Kể từ đây, Cha Pa (tên gọi dưới thời Pháp) đã được biết đến với các tên gọi “trạm nghỉ dưỡng trên cao”, “kinh đô mùa hè ở Đông Dương”, “khu nghỉ mát điều dưỡng”. Sau 120 năm, vẻ đẹp của “nơi gặp gỡ đất trời” vẫn luôn hấp dẫn du khách muôn phương, vẫn là vùng đất gợi nhớ, gợi thương trong lòng người đến với Sa Pa.

Sa Pa bốn mùa, mùa nào cũng đẹp. Một ngày ở Sa Pa hội tụ đủ bốn mùa. Vào buổi sáng, Sa Pa ẩn mình trong khói sương. Khi nắng lên, Sa Pa ấm áp đón gió xuân. Khi mặt trời đứng bóng, trời quang mây tạnh, khắp đó đây tràn ngập hương sắc mùa hè. Khi hoàng hôn buông xuống, Sa Pa gói mình trong se lạnh. Ban đêm, cả Sa Pa chìm trong giấc ngủ đông. Từ tháng Năm đến tháng Tám, Sa Pa có mưa nhiều, lượng mưa trung bình khoảng 1.800 - 2.200mm. Mùa hè ở Sa Pa nhiệt độ khoảng 20 - 250C vào ban ngày, 13 - 150C vào ban đêm. Mùa đông thường có mây mù bao phủ và lạnh, nhiệt độ trung bình 3 - 70C, có những lúc xuống tới 00C. Sa Pa cũng là một trong những nơi hiếm có của Việt Nam có tuyết rơi.  Khi hoa đào nở khắp các bản làng là lúc mùa xuân đang về.

Nhắc đến Sa Pa, nhiều người sẽ liên tưởng đến hình ảnh của đỉnh Phan Xi Păng - "nóc nhà Đông Dương", của nhà thờ đá, phố núi ẩn hiện trong sương vào mỗi buổi sáng hay chiều muộn. Sương và đá đã làm nên sự kỳ vĩ và huyền thoại của Sa Pa, làm nên những điều chỉ riêng có ở Sa Pa.

Ở Sa Pa, các tộc người: Kinh, Mông, Dao, Tày, Giáy, Xá Phó (Phù Lá)... hội tụ, sinh sống từ lâu đời. Trong đó, người Mông chiếm trên 50% dân số. Các tộc người ở đây bao đời nay đều sống hòa ái với sương, với đá. Sự kiên cường, mạnh mẽ như đá, mềm mỏng, nhẹ nhàng như sương của họ đã làm nên một bức tranh sống động về Sa Pa, tạo nên một không gian văn hóa sâu, rộng. Không gian đó tiếp tục được mở ra đầy khoáng đạt với chiều dài của lịch sử, của di sản để kết nối quá khứ với tương lai.

Ở Sa Pa, sương và đá đã trở thành biểu tượng trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc - là triết lý sống cương - nhu, triết lý về sự hài hòa, triết lý về sự tồn tại và hồi sinh. Có thể nói, sương và đá đã tạo nên một nốt “lặng”, làm nên cái “lặng lẽ” đặc trưng của Sa Pa. Tạo nên một Sa Pa với vẻ đẹp đầy bí ẩn. Nơi đây, con người lặng lẽ trong sương, trên đá để sinh tồn và phát triển.

Từ biểu tượng của sương và đá, cuốn sách mong muốn được kể một câu chuyện bằng hình ảnh về cảnh sắc và con người Sa Pa. Câu chuyện về vẻ đẹp huyền ảo của Sa Pa ẩn hiện trong sương; về vẻ đẹp “lặng lẽ” của Sa Pa trong sương, trên đá; về những con người sống với đá, với sương; về những bản tình ca được viết nên từ sương và đá; và những khát vọng được viết nên từ vùng đất của đá và sương.

Hy vọng cuốn sách sẽ chạm được đến cảm xúc của đông đảo độc giả. Có thể chỉ là sự rung động với hạt nắng nhỏ đang nằm trong một giọt sương long lanh, là những cánh đào đỏ thắm trên hàng rào đá xinh xắn bao quanh căn nhà trình tường của người Mông. Đi vào trong câu chuyện của “Sa Pa - sương và đá”, độc giả được trở về với thiên nhiên để cảm nhận sự bao dung, hiền hòa của thiên nhiên mà thêm yêu quê hương, xứ sở, được đắm mình trong dòng chảy văn hóa để thêm yêu những con người và những cuộc đời trên đá, trong sương.

618 lượt xem
Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc
Bộ Thông tin và Truyền thông

Việt Nam được ví như “bảo tàng tín ngưỡng, tôn giáo thế giới”, đời sống tín ngưỡng của người dân đa dạng, phong phú. Sự đa dạng của tín ngưỡng dân tộc qua các loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng thờ vua Hùng, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Tín ngưỡng phồn thực… Mặc dù các tín ngưỡng có nguồn gốc hình thành, phát triển khác nhau; nội dung, nghi lễ khác nhau nhưng không vì thế mà có sự xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, các tín ngưỡng luôn có sự gắn kết, giao thoa với nhau để cùng tồn tại, phát triển trong một quốc gia, dân tộc. Các tín ngưỡng dân tộc mang những đặc điểm cơ bản như đa thần, bình đẳng, dân chủ, giàu chất nhân văn, hỗn dung tôn giáo.
Những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc đã góp phần tạo nên nét đẹp trong tinh hoa văn hóa dân tộc, truyền tải những giá trị nhân văn của dân tộc như đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn, trách nhiệm với quê hương đất nước, tinh thần cố kết cộng đồng… Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân tộc cũng đang bị lợi dụng ảnh hưởng tiêu cực đối với cộng đồng, làm suy giảm, mai một các giá trị nhân văn của các tín ngưỡng, lễ hội truyền thống. Nhiều vấn đề đặt ra từ sự tác động của một số xu hướng biến đổi tín ngưỡng đến đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền - Nguyễn Thị Hiệp biên soạn, xuất bản cuốn sách “Phát huy giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc”.
Từ việc nghiên cứu thực trạng xu hướng biến đổi của các tín ngưỡng dân tộc trước sự tác động của quá trình hội nhập, cách mạng công nghệ, công nghiệp hóa, đô thị hóa… Và những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy những giá trị nhân văn của các tín ngưỡng dân tộc trong điều kiện mới. Qua đó đề xuất nhóm giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của các tín ngưỡng dân tộc trong tiến trình bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong điều kiện mới hiện nay.

996 lượt xem
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực kinh tế thương mại, năng lượng
PGS. TS LÊ VĂN TOAN
Nội dung cuốn sách giới thiệu về lịch sử, văn hóa, kinh tế và con người Ấn Độ; làm nổi bật văn hóa chiến lược của Ấn Độ trong xây dựng chính sách an ninh quốc gia qua các thời kỳ lịch sử; đặc biệt là các công trình khoa học của các chuyên gia Việt Nam và Ấn Độ về mối quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam - Ấn Độ trên lĩnh vực văn hóa, kinh tế. Việc tìm hiểu về văn hóa, kinh tế, xã hội, tư duy chiến lược của nước bạn có ý nghĩa nhiều mặt, giúp chúng ta có được những thông tin, tư liệu khoa học để nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về đất nước, con người Ấn Độ, về mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Ấn Độ. Mặt khác, sự phân tích và đánh giá của các tác giả sẽ cung cấp một cái nhìn toàn diện hơn về mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, qua đó giúp cho việc triển khai hiệu quả kế hoạch hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới, và cũng là hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung, đặc biệt là với Ấn Độ, giúp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ sẽ có nhiều động lực mới để phát triển vững chắc hơn nữa trong tương lai vì mong muốn và lợi ích của hai dân tộc, góp phần duy trì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của hai nước và của khu vực cũng như trên toàn thế giới.
634 lượt xem
Hồ sơ văn hóa Mỹ (A File on American Culture)
Hữu Ngọc
Trong không khí trao đổi văn hóa quốc tế từ sau cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề tìm hiểu văn hóa Mỹ được đặt ra, nhất là sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận (1994). Ở nước ta, có một kho tàng trước tác phong phú bằng tiếng Việt về những nền văn hóa châu Á - đặc biệt về Trung Quốc, Ấn Độ - và các nước Đông Âu. Đối với các nền văn hóa phương Tây, chúng ta biết rõ nhất là văn hóa Pháp. Đối với văn hóa Mỹ, nhất là ở phía Bắc vĩ tuyến 17, chúng ta chưa có một cuốn sách nào trình bày một cách sâu sắc và có hệ thống. Trong khi chờ đợi một tác phẩm bác học và toàn vẹn như thế, chúng tôi muốn đóng góp một phần khiêm tốn vào vấn đề ấy. Sách này bắt đầu bằng hai câu hỏi: “Có một nền văn hóa Mỹ hay không? Nếu có thì cái hay cái dở của nó như thế nào?” Chúng tôi đặt hai câu hỏi này cho hơn một chục bạn ở Mỹ (da trắng, da đen, da đỏ), Anh, Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Luxembourg; những bài trả lời được in nguyên, không bình luận, coi như bản dạo đầu với vấn đề. Cuốn sách là những cảm tưởng, ghi chép, bài nghiên cứu, phóng sự, phỏng vấn, đối thoại, bản dịch thơ và văn xuôi, bản tóm tắt tác phẩm, có cả thống kê và bảng khái quát, - đa số của tác giả, nhưng cũng có những đóng góp của bạn bè Mỹ và người nước ngoài khác, một số bài của báo chí quốc tế. Cuốn sách này là một tập Hồ sơ văn hóa Mỹ. Vì là hồ sơ nên không khỏi không có ý lặp lại hoặc đối lập. Chúng tôi tôn trọng sự tự do lựa chọn của độc giả.
997 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thủ đô Hà Nội là trung tâm của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc. Ít có nơi nào lưu giữ được nhiều chứng tích lịch sử như thành phố Hà Nội. Nơi đây, mỗi địa danh, mỗi đường phố đều gắn với các sự tích, chiến công của ông cha. Những địa danh như Cổ Loa, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình... chứa đựng những dấu ấn, ghi nhớ những chặng đường lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí bất khuất và tài năng của nhân dân Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Một nét kiến trúc Chùa Một Cột, tổng hòa không gian Văn Miếu - Quốc Tử Giám... đều góp phần làm rạng rỡ truyền thống lịch sử - văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là chứng tích vô giá của truyền thống ngàn năm văn vật, là viên ngọc quý, là cổ vật thiêng liêng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là biểu tượng của sức sống nội tại, được dựng xây từ mồ hôi công sức và cả xương máu của lớp lớp thế hệ người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Đó là những tảng đá nền kê chân cột để tạo dựng tòa nhà cao vững, vừa là bằng sắc để minh chứng cho quá khứ huy hoàng, vừa là di sản quý giá, là nét vàng son của phẩm chất đặc trưng cho con người Hà Nội, con người Việt Nam, vừa là linh hồn truyền tải những giá trị thiêng liêng của mảnh đất ngàn năm văn vật. Thăng Long - Hà Nội sắp bước qua tuổi ngàn năm. Thăng Long - Hà Nội có hàng ngàn di tích lịch sử - văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa chính là một cây cầu kết nối Thăng Long xưa với Hà Nội nay, nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai. Yêu Thăng Long - Hà Nội, trân trọng di sản của ông cha, trước hết và hơn hết là yêu, trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
1141 lượt xem
So sánh Xú-pha-xít Lào với ca dao Việt Nam
PGS. TS Lý Hoài Thu, ThS Tạ Hồng Hạnh, TS Nguyễn Phương Liên
Người Lào có câu xú-pha-xít “Mạy huồm co po huồm xược” (Đay chung dây, cây chung khóm). Quan hệ Việt Nam - Lào như lá chung một cành, như hoa chung một bụi. Hai đất nước cùng nằm trên bán đảo Đông Dương thuộc vùng Đông Nam Á, không chỉ liền kề nhau về địa lý mà còn có mối quan hệ bang giao hữu hảo lâu đời. Bởi vậy, bên cạnh những điểm khác nhau tất yếu, xuất phát từ bản sắc dân tộc, nền văn hóa hai nước nói chung, văn học dân gian hai nước nói riêng có những điểm tương đồng như là bản chất chung trong quá trình sáng tạo folklore nhân loại cũng như sự giống nhau do những điều kiện lịch sử, địa lý tự nhiên và những quan hệ giao lưu văn hoá mang lại. Nghiên cứu sự giống nhau và khác nhau này thông qua việc so sánh xú-pha-xít Lào và ca dao Việt Nam sẽ góp phần khẳng định tính độc lập của mỗi dân tộc; đặc biệt, không chỉ giúp cho những người quan tâm hiểu biết thêm về xú-pha-xít Lào hay ca dao Việt Nam, hiểu rõ hơn những nét đẹp truyền thống trong tâm hồn và tính cách của chính mình và của người bạn láng giềng mà còn góp phần làm sáng tỏ sự giống nhau kỳ lạ, đến từng chi tiết của một bộ phận văn học dân gian giữa hai dân tộc. Trong giáo trình chính thống của ngành Văn học, các tác giả đề cập đến khái niệm trữ tình dân gian (để phân biệt với tự sự dân gian), có sử dụng cụm từ “ca dao, dân ca” đi liền với nhau. Trong đó, khi nhấn mạnh đến ba yếu tố cần chú ý để phân loại dân ca Việt Nam: 1 - Lời ca (câu hay bài) 2 - Giai điệu (giọng hoặc làn điệu) 3 - Hình thức sinh hoạt (hay lề lối hát) Có thể thấy, yếu tố thứ hai đặc trưng cho dân ca nhưng hai yếu tố còn lại thì có thể bắt gặp ở khái niệm được định danh là “ca dao” trong văn học dân gian Việt Nam. Thậm chí có thể thấy là lời những bài dân ca có cùng thi pháp với ca dao, hay có thể sử dụng bất kỳ câu ca dao nào làm lời cho một làn điệu dân ca ngẫu hứng (hát ru con, hò...). Cuốn sách còn chia riêng thể loại “Lời ăn tiếng nói của nhân dân” bao gồm tục ngữ và câu đố. Tuy nhiên, trong văn học dân gian Lào tồn tại hai khái niệm: xú-pha-xít có nội hàm bao gồm thành ngữ, tục ngữ, câu đố và cả ca dao (vì gồm nhiều câu dài, hoặc những tác phẩm được ghi lại thành lời, tách riêng khỏi các làn điệu...); lăm và khắp có nội hàm tương tự dân ca ở Việt Nam. Chính do sự khác biệt trong cách phân loại cũng như tính nguyên hợp trong các thể loại của folklore, trong cuốn sách này, chúng tôi sử dụng khái niệm “phương ngữ” (phương: mùi thơm, ở đây chỉ những câu nói tinh hoa của dân gian (Trữ tình dân gian: ca dao, dân ca, thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian), khác với cách hiểu phương ngữ là “từ/tiếng địa phương” hay thổ ngữ) song song với “ca dao” để so sánh với xú-pha-xít của Lào.
1139 lượt xem
Chính sách đối ngoại trung lập của Campuchia giai đoạn 1954-1970
TS Nguyễn Thành Văn
Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng nằm trên bán đảo Đông Dương, có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít và diễn ra liên tục từ lâu đời. Tuy vậy, quan hệ giữa hai nước cũng có những thăng trầm nhất định tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chính sách xây dựng phát triển đất nước nói chung, chính sách đối ngoại nói riêng và đặc biệt là chính sách của mỗi nước dành cho nhau. Thực tế lịch sử cận hiện đại Việt Nam và Campuchia cho thấy mọi sự biến động chính trị - xã hội của nước này đều có ảnh hưởng nhất định đến nước kia và ngược lại. Sau khi giành được độc lập (1953), Campuchia thực hiện chính sách đối ngoại trung lập cho đến năm 1970 (Lon Nol lật đổ chế độ của Norodom Sihanouk). Chính sách đối ngoại trung lập không chỉ góp phần quan trọng tạo nên một trong những thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử Campuchia mà còn có tác động đến công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.. Cuốn sách Chính sách đối ngoại trung lập của Campuchia giai đoạn 1953 - 1970 gồm 03 chương: Chương 1: Bối cảnh lựa chọn và thực hiện chính sách đối ngoại của Campuchia; Chương 2: Quá trình hình thành và triển khai chính sách đối ngoại của Campuchia; Chương 3: Đặc điểm và hệ quả của chính sách đối ngoại của Campuchia. Mục đích của cuốn sách trước hết là phân tích, lý giải tại sao Campuchia lựa chọn chính sách đối ngoại trung lập, những nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách này. Hai là,làm rõ quá hình thành, nội dung, mục tiêu của chính sách đối ngoại cũng như việc hiện thực hóa chính sách này. Ba là, đánh giá về những đặc điểm, hệ quả của chính sách này đối với Campuchia và công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Trong quá trình biên soạn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các nhà nghiên cứu, đồng nghiệp ở cả Việt Nam và Campuchia. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Mặc dù đã cố gắng nhưng trong quá trình biên soạn, tác giả khó có thể tránh được những sai sót vì vậy rất mong độc giả lượng thứ.
1122 lượt xem
Lãng du trong văn hóa xứ sở hoa anh đào
Hữu Ngọc
Đã từ lâu, Người Việt Nam luôn rất quan tâm và ngưỡng mộ nền văn hóa Nhật Bản. Càng hiểu biết về nền văn hóa đó chúng ta lại càng phát hiện thêm những nét độc đáo, những nét riêng, nét chung và những sự tương đồng giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Nhật Bản. Trong vài thập kỷ gần đây, sự giao lưu văn hóa, giao lưu giữa những người dân của hai nước đã phát triển một cách ngoạn mục. Càng ngày sự tương đồng, gần gũi giữa văn hóa hai nước càng được nghiên cứu, phân tích, thừa nhận nhiều hơn, đến mức có một số học giả, kể cả chính trị gia hai nước cho rằng Nhật Bản và Việt Nam không chỉ là đối tác chiến lược mà còn là đối tác tự nhiên, đồng minh tự nhiên, không chỉ vì lợi ích. Nhà văn hóa Hữu Ngọc, Người được giới học giả trong và ngoài nước kính trọng và gọi là “Nhà xuất nhập khẩu văn hóa”. Ông viết nhiều sách về văn hóa, nhiều bài viết khá nổi tiếng trong đó có văn hóa Nhật Bản. Lãng du trong văn hóa xứ sở Hoa Anh đào, là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông. Với 7 chương, tựa như 7 khúc nhạc của bản hòa tấu giàu âm hưởng về xứ sở hoa Anh đào, cuốn sách sẽ lần lượt đưa bạn đọc đến thăm “Xứ sở hai hòn trống mái”, trải nghiệm “Hành trình văn hóa Nhật Bản qua một lịch sử đóng mở”, tìm hiểu “tư duy và tâm linh”, “nghệ thuật và nghệ thuật sống” của người Nhật Bản, khám phá “tâm hồn Nhật Bản qua truyện cổ tích”, “Dạo chơi vườn văn Nhật Bản” và cuối cùng mời bạn đọc “Bước sang ngưỡng cửa thế kỷ XXI” với những dự báo cho tương lai của xứ sở hoa Anh đào cũng như mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển tốt đẹp. Đến với Lãng du trong văn hóa xứ sở Hoa Anh đào,chúng ta sẽ cảm nhận được sự tinh tế và một lối viết mang dáng dấp tùy bút, mộc mạc mà đằm thắm của Hữu Ngọc. Từng trang viết hấp dẫn, nhẹ nhàng mà sâu sắc dựa trên nguồn tư liệu và trải nghiệm phong phú của chính bản thân tác giả, sẽ khiến cho ta cảm nhận khá đủ đầy về đất nước Mặt trời mọc từ những góc nhìn, cự ly khác nhau, vừa chi tiết, vừa khái quát… Nào, mời bạn cùng lãng du tìm hiểu văn hóa của xứ sở Hoa Anh đào nổi tiếng thế giới nhé!.
1390 lượt xem