Tiếng Việt
Chọn ngôn ngữ
Tiếng Việt
English
Việt Nam là một quốc gia văn hiến có lịch sử phát triển mấy nghìn năm rực rỡ; ngay từ thế kỷ XV, sau khi đánh đuổi quân Minh, giành lại độc lập cho đất nước, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi đã khẳng định trong “Bình Ngô đại cáo”: 唯, 我 大 越 之 國, 實 為 文 献 之 邦…Duy, ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang...: Như nước Đại Việt ta, thực là một nước văn hiến.... Một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần làm nên văn hiến Việt Nam chính là Nho giáo, Nho học; và chính những di tích nho học là một phần bộ mặt của nền văn hiến đó. Với truyền thống “tôn sư trọng đạo”, trọng người hiền tài; hơn 500 năm về trước, vâng mệnh vua Lê Thánh Tông - vị minh quân “võ công văn trị” nổi tiếng trong lịch sử dân tộc; Thân Nhân Trung - Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, Quốc tử giám Tế tửu, Lễ bộ Thượng thư, Lại bộ Thượng thư, đã viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng Thánh đế, minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng...”[1]. Thực tế cho thấy, với bất cứ một quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển đều phải chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực - nhân tài cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước nhà, sự nghiệp giáo dục - đào tạo càng có vai trò to lớn hơn bao giờ hết. Việc nghiên cứu, tìm hiểu truyền thống và kinh nghiệm của cha ông là một động thái quan trọng cho tiến trình hội nhập và phát triển hiện nay. Trong lịch sử dân tộc, tầng lớp Nho sĩ Việt Nam đã góp phần to lớn của mình trong sự nghiệp củng cố và phát triển đất nước. Công lao to lớn của họ đã được đất nước và nhân dân trân trọng, tôn vinh. Các nhà nước phong kiến Việt Nam đã luôn dành cho họ vị trí xứng đáng trong xã hội; thể hiện bằng việc sử dụng, bổ nhiệm những người có tài, có trình độ học vấn đã đỗ đạt vào các vị trí trong bộ máy chính quyền phong kiến từ Trung ương đến địa phương. Việc tưởng nhớ, ghi công ông tổ nho học và các hiền triết - danh nho ở bất kỳ triều đại nào cũng là mối quan tâm của chính quyền phong kiến các cấp cũng như đông đảo các tầng lớp nhân dân. Từ đó đã ra đời hệ thống di tích thờ tự danh nho trên khắp miền đất nước. Vùng đồng bằng Bắc Bộ, mảnh đất gốc, cái nôi của văn minh Việt, nơi đã tiếp nhận sớm nhất sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo từ Trung Hoa. Đây cũng là vùng đất mà Nho học phát triển mạnh nhất và đạt được những thành tựu to lớn nhất. Cũng chính ở đây, hệ thống di tích Nho học có số lượng khá lớn. Sau những biến thiên dữ dội của lịch sử dân tộc, hệ thống Văn miếu ở đồng bằng Bắc Bộ hiện chỉ còn lại 4 di tích với qui mô kiến trúc tương đối lớn ở Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên. Ngoài ra, một số địa phương trên cả nước cũng còn giữ lại được nhiều di tích Văn miếu với qui mô và tính chất khác nhau, như: Văn Thánh Huế, Khổng Tử miếu [Hội An, Quảng Nam], Khổng Tử miếu Tam Kỳ [Quảng Nam], Văn miếu Bình Định, Văn miếu Diên Khánh [Khánh Hòa], Văn miếu Trấn Biên [Đồng Nai], Văn Thánh miếu Vĩnh Long… và rất nhiều các văn chỉ, từ chỉ với qui mô và hiện trạng khác nhau ở các địa phương. Trong những năm qua, việc nghiên cứu các di tích Nho học ở các địa phương cũng đã và đang được tiến hành dưới nhiều mức độ khác nhau. Từ đó rút ra những ý nghĩa, bài học cần thiết để khai thác giá trị của hệ thống di tích Nho học trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức hôm nay. Kế thừa những thành tựu to lớn của các nhà nghiên cứu trước đây, cuốn sách "Hệ thống di tích Nho học Việt Nam và các văn miếu tiêu biểu ở Bắc Bộ" sẽ hệ thống hóa tổng quan những vấn đề về Nho giáo và Nho học Việt Nam đồng thời giới thiệu khá chi tiết những di tích Văn miếu tiêu biểu ở Bắc Bộ. Cuốn sách cũng cung cấp một cách tiếp cận đa chiều thông qua việc “giải mã văn hóa” các vấn đề liên quan đến hệ thống di tích Nho học. Điều đó giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về các di sản văn hóa tri thức của cha ông ta để lại.
Cuốn sách trình bày về tổng thể các giá trị di sản văn hóa cồng chiêng ở tỉnh Quảng Ngãi trong tổng thể văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Cuốn sách “Xã hội Nhật Bản: dân số, gia đình và cộng đồng” là tập hợp kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2020 và 2021 của tác giả, có chỉnh lý, bổ sung, đưa thêm một số thông tin về những vấn đề của Nhật Bản trong đại dịch Covid-19 nhằm gửi đến độc giả những thông tin chính xác và cập nhật về xã hội Nhật Bản hiện nay.
Cuốn sách giới thiệu khái quát những nét chính về 12 cộng đồng tộc người sinh sống ở các tỉnh ven biển và miền Trung, bao gồm: Lược sử tộc người, Cuộc mưu sinh, Tập quán sinh hoạt, Phong tục cổ truyền, Đời sống tâm linh và Văn học - nghệ thuật dân gian. Trong đó có 6 tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khmer, 2 tộc người nói ngôn ngữ Nam Đảo, 2 tộc người nói ngôn ngữ Việt - Mường và 2 tộc người nói ngôn ngữ Hán Quảng Đông. Diện mạo này cho thấy khu vực ven biển Đông thuộc lãnh thổ Việt Nam là một vùng hỗn cư, gồm những nhóm tộc người thuộc 4 thành phần ngôn ngữ khác nhau vì ven biển là nơi cửa mở.
Những tộc người này được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới theo thứ tự dựa vào kết quả của cuộc Tổng điều tra về dân số và nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê công bố.
Với những giá trị văn hóa, nghệ thuật và tâm linh đặc sắc như vậy, ngày 01/12/2016, “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”. Cuốn sách này là một cố gắng nhỏ bé nhằm chuyển tải những kiến thức, hiểu biết cơ bản nhất về tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, bản chất, giá trị, vai trò của thực hành tín ngưỡng này trong đời sống tâm linh người Việt. Đây thực sự là một di sản văn hóa độc đáo được trao truyền từ quá khứ qua nhiều thế hệ, cần được hiểu đúng và nhận thức đầy đủ nhằm giữ gìn và phát huy những mặt tích cực trong xã hội đương đại.
Được coi là vùng đất cổ, là cửa ngõ thông thương với vùng Tây Nam của Trung Quốc, Lào Cai độc đáo với cảnh quan tươi đẹp, núi non hùng vĩ, là nơi cư trú của nhiều dân tộc với 25 nhóm, ngành khác nhau, như: Mông, Dao, Tày, Giáy, Phù Lá, Hà Nhì, Kinh… Trải qua hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển, bằng tài năng sáng tạo của con người cùng với sự đa dạng về các thành phần dân tộc, Lào Cai đã có một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú về loại hình, độc đáo về bản sắc tộc người, với một hệ thống: tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; lễ hội truyền thống; phong tục tập quán; tri thức dân gian…
Từ khi được tái lập năm 1991, với bộn bề những khó khăn trong công cuộc tái thiết nền kinh tế, xã hội còn lạc hậu của một tỉnh miền núi nhưng các cấp, các ngành của tỉnh Lào Cai đã sớm chú trọng đến nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống các dân tộc.
Thực hiện Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia giai đoạn 2011 - 2015; Ðề án số 13 của Tỉnh ủy về phát triển thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015; Kế hoạch số 126/KH-UBND ngày 28/10/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015;
Kế hoạch số 126/KH-UBND ngày 28/10/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015; Ðề án số 8 của Tỉnh ủy Lào Cai về phát triển văn hóa, thể thao tỉnh Lào Cai giai đoạn 2016 - 2020, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thành chương trình kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể của 25 nhóm, ngành dân tộc cư trú ở 500 thôn bản trên toàn tỉnh; lựa chọn và lập hồ sơ khoa học được 26 di sản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; trong đó 02 di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO ghi danh tại Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là: Nghi lễ và trò chơi kéo co Tày, Giáy và Nghi lễ Then của người Tày trong hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái”.
Bảo tồn và phát huy tốt giá trị di sản văn hóa phi vật thể là cơ sở hình thành và tạo nên giá trị cốt lõi để phát triển các sản phẩm du lịch nhân văn độc đáo, góp phần đưa Lào Cai trở thành một địa phương được đông đảo bạn bè trong nước và ngoài nước biết đến, thu hút đông đảo du khách đến với Lào Cai.
Trong những năm qua, Lào Cai luôn dẫn đầu các tỉnh phía Tây Bắc về số lượng khách du lịch. Năm 2019, lượng khách đến Lào Cai đạt gần 5 triệu lượt, doanh thu từ du lịch đạt 19.800 tỷ đồng, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Có thể nói, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc của tỉnh Lào Cai trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ðể có được những kết quả này, ngoài sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự phối hợp thực hiện chặt chẽ của các sở, ngành, còn có sự chung tay của cộng đồng các dân tộc, của các nghệ nhân dân gian, những người am hiểu sâu sắc về vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Di sản văn hóa sẽ mãi tồn tại và phát triển, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ hội nhập.
Cuốn sách là những chia sẻ nhẹ nhàng và sâu sắc về giai đoạn tuổi học trò – khoảng thời gian đầy biến động trong tâm sinh lý, cảm xúc và suy nghĩ. Tác giả thấu hiểu những áp lực, bối rối, hoang mang mà người trẻ phải đối diện trong học tập, các mối quan hệ và định hướng tương lai. Với hình ảnh “con Lật đật” – biểu tượng của sự kiên cường và cân bằng – cuốn sách gửi gắm thông điệp tích cực, truyền cảm hứng sống, giúp người đọc vượt qua khó khăn, giữ vững niềm tin và cảm nhận hạnh phúc từ những điều giản dị trong cuộc sống.
Hôn nhân không chỉ là bước chuyển trọng đại trong chu kỳ vòng đời người mà còn là một sự kiện quan trọng đối với mỗi gia đình, dòng họ, làng xóm... Ngoài các quy định của pháp luật, hôn nhân cần được xác lập thông qua các phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác và luôn biến đổi theo thời gian. Bởi vậy, phong tục cưới hỏi không chỉ là một trong những nghi lễ quan trọng của chu kỳ vòng đời người, mà còn phản ánh rõ nét
đặc điểm văn hóa tộc người với những dấu ấn truyền thống và hiện đại. Từ xưa đến nay, các dân tộc Việt Nam đều rất chú trọng phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi vừa là một sinh hoạt văn hóa tâm linh, vừa là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phong tục cưới hỏi chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống đã được chắt lọc, kết tinh qua nhiều thế hệ, như lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa nghệ thuật... và có tác động sâu sắc đến việc hình thành cốt cách, tình cảm, diện mạo văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Phong tục cưới hỏi là một phần không thể thiếu đối với mỗi gia đình, dòng họ và cộng đồng, một thành tố quan trọng góp phần cấu thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Liên minh Bưu chính Thế giới (gọi tắt là UPU) khởi xướng và tổ chức Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần đầu tiên vào năm 1971 dành cho các em thanh thiếu niên từ 10 - 15 tuổi với mục đích nhằm phát triển khả năng viết văn của thanh thiếu niên, làm phong phú thêm sự tinh tế trong tư duy, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa các dân tộc và giúp các em hiểu biết thêm về bưu chính và vai trò của ngành Bưu chính trong cuộc sống và phát triển kinh tế, xã hội.
Mỗi năm UPU chọn ra một chủ đề của Cuộc thi gắn với các hoạt động mang tính văn hóa, kinh tế xã hội nổi bật chung của Liên hợp quốc hoặc các vấn đề lớn mang tính toàn cầu và cấp thiết. Thông qua các chủ đề này, các em học sinh không chỉ có dịp để phát triển tư duy và khả năng sáng tạo mà còn là dịp bày tỏ quan điểm và ý kiến của mình khi giải quyết các vấn đề liên quan tới chủ đề của cuộc thi. Nhiều em đã có những bức thư làm sửng sốt người đọc vì tư duy và tình cảm sâu sắc vượt trên lứa tuổi của mình, mang tính nhân văn sâu sắc.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU (1971 - 2021), Văn phòng Quốc tế UPU đã phát hành ấn phẩm tập hợp 53 bức thư đạt giải Nhất Quốc tế tại các Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU và bình chọn ra bức thư hay nhất trong số đó (Best of The Best). Bức thư đạt giải Nhất Quốc tế Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 7 (năm 1978) với chủ đề “Bác bưu tá, người bạn tốt của tôi - The postman, my best friend” đã được lựa chọn là bức thư hay nhất. Chủ nhân của bức thư đó là Mi-kyong Ryu, bé gái 11 tuổi đến từ Hàn Quốc vào năm 1978. Chủ đề và nội dung bức thư gắn tới hình ảnh thân quen về người bưu tá, gợi cho chúng ta nhớ tới hình ảnh các nhân viên Bưu điện Việt Nam - một trong những lực lượng tuyến đầu miệt mài chuyển phát thư, bưu kiện, hàng hoá tới tận tay người dân trong bối cảnh đại dịch Covid ảnh hưởng tới toàn xã hội. Để tạo cơ hội cho các Nhà trường và các em học sinh trên cả nước tiếp cận phiên bản bức thư hay nhất (Best of The Best) của UPU, Bộ Thông tin và Truyền thông đã liên hệ được bản quyền, và giao Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tổ chức biên dịch, biên tập, xuất bản và phát hành cuốn sách “Các bức thư hay nhất thế giới” sang tiếng Việt. Cuốn sách hữu ích này không chỉ giới thiệu nguyên tác 53 bức thư như những viên ngọc sáng lấp lánh sắc màu mà còn đem đến cho người đọc những ý tưởng, cảm xúc chân thật, các chi tiết ấn tượng nhất của mỗi bức thư. Đọc những bức thư sinh động và lay động lòng người trong ấn phẩm nêu trên cũng là lúc chúng ta lắng lại để suy ngẫm, cảm nhận và liên tưởng về cuộc sống xoay quanh mỗi chủ đề của cuộc thi. Hy vọng, các em học sinh sẽ tìm thấy trong cuốn sách của mình những gợi mở, những liên hệ thú vị để hình thành cách thể hiện riêng, ghi dấu ấn riêng và sẽ có những bức thư hay khi tham gia những cuộc thi tới.