Văn hóa - Xã hội
Ký ức về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972
Hội Truyền thống Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị thành phố Hà Nội

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã đi vào lịch sử dân tộc như một trang vàng chói lọi. Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần dũng cảm, kiên cường, bộ đội ta đã giữ vững Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm, góp phần tạo nên thắng lợi trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, đồng thời giữ vững vùng giải phóng, nơi bố trí trụ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Là người lính thuộc Đại đội 9, Tiểu đoàn 3, rồi sau này là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48 (Thạch Hãn), đã từng trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị những năm tháng đó, tôi vô cùng xúc động mỗi khi nghĩ đến đồng đội của mình - những người vào sinh, ra tử trên chiến trường, họ luôn phải đối diện với bom đạn, chết chóc, nhưng vẫn hiên ngang, bình thản và tự tin vào chiến thắng. Trong những đồng đội ấy - những người lính kiên cường chiến đấu bảo vệ Thị xã - Thành cổ Quảng Trị năm 1972 đã để lại dấu ấn rất sâu đậm trong lòng tôi.
Trong Chiến dịch Quảng Trị 1972 nói chung, cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị nói riêng, quân và dân Quân khu Thủ đô (trước đây) đã có những đóng góp vô giá. Những năm tháng đó, lớp lớp thanh niên Hà Nội - Hà Tây không ngại hy sinh, gian khổ sẵn sàng xung phong ra tiền tuyến với tinh thần “Ba sẵn sàng” và chí khí “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” chỉ mong Bắc – Nam sớm được sum họp một nhà. Thật khó có thể liệt kê, đong đếm hết được những tình cảm và đóng góp của quân và dân Thủ đô Hà Nội vì miền Nam ruột thịt trong những ngày tháng khó khăn ấy. Trong số hơn bốn nghìn chiến sỹ đã ngã xuống ở Mặt trận Thành cổ Quảng Trị năm 1972, riêng cán bộ, chiến sỹ người Hà Nội (bao gồm cả Hà Nội và Hà Tây trước đây) đã hy sinh 518 người, đứng đầu danh sách liệt sỹ của 30 tỉnh - thành phố trong cả nước có con, em chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Ngày 23/6/2015, Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hà Nội đã ra
Quyết định số 2872/QĐ-UBND về việc thành lập Hội Truyền thống Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị thành phố Hà Nội. Với mục đích nghĩa tình đồng đội, tri ân liệt sỹ, phát huy truyền thống của “Bộ đội Cụ Hồ”... ngay sau khi thành lập, Hội đã nhận được sự cổ vũ, giúp đỡ của các cấp ủy, chính quyền và đáp ứng nguyện vọng của hàng nghìn cựu chiến binh (CCB) đang sinh sống trên địa bàn Hà Nội. Cho đến nay, Hội đã tổ chức được 15 chi hội ở các quận, huyện, thị xã với số lượng trên 1.400 hội viên. Trong năm 2024, hướng tới kỷ niệm 10 năm thành lập Hội, đồng thời thiết thực kỷ niệm các Ngày lễ lớn của Quân đội và Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Hội Truyền thống Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị thành phố Hà Nội đã chủ trương xuất bản cuốn sách Ký ức về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa nhằm tri ân các anh hùng liệt sỹ, nâng cao niềm tự hào, ý thức trách nhiệm của mỗi hội viên Hội Truyền thống Chiến sỹ Thành cổ Quảng Trị trong việc giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ và lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà Nội trong tình hình mới.
Cuốn sách Ký ức về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 được kết cấu làm 2 phần. Phần 1 gồm các bài viết của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, các tướng lĩnh (những người đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu) và những ý kiến nhận xét, đánh giá của các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài quân đội về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị.
Phần 2 là ký ức về 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thị xã - Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Phần này chủ yếu tập hợp những bài viết của hội viên 15 chi hội. Với dung lượng gần 500 trang và hơn 70 bài viết dưới các thể loại, cuốn sách thực sự là một tư liệu quý giá. Thông qua những câu chuyện của những người trong cuộc, để lại cho người đọc những cảm xúc chân thật về những con người một thời không tiếc tuổi xuân và tính mạng của mình cho nền độc lập tự do của dân tộc. Qua những trang viết mộc mạc đơn sơ của những người lính trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ Thị xã - Thành cổ Quảng Trị năm 1972, người đọc nhận thấy khát vọng cống hiến của một thế hệ sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sự dũng cảm, hy sinh của các chiến sỹ năm xưa vẫn là nguồn cảm hứng mãnh liệt, thôi thúc thế hệ trẻ hôm nay sống có lý tưởng, hoài bão, mang hết sức lực, tài năng cống hiến cho hòa bình, phát triển của Thủ đô Hà Nội và đất nước.

426 lượt xem
85 Chân dung Văn hóa, Văn chương Việt - Tập 2
GS. Phong Lê

Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”,và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội.

 Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp.

 Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập. 

Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh. 

Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được. 

m 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.

Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.

3215 lượt xem
Trường học Hà Nội xưa
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Trong tấm bia Tiến sĩ đầu tiên được dựng lên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám ghi chép tên tuổi, quê quán những Tiến sĩ Nho học thi đỗ trong khoa thi năm 1442, bài ký do Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn có câu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài”. Đây được xem như tuyên ngôn về giáo dục Nho học của các vương triều phong kiến Việt Nam nói riêng, của nền giáo dục đào tạo Việt Nam nói chung qua các thời kỳ lịch sử. Muốn có nhân tài để dựng nước và giữ nước thì phải giáo dục, đào tạo. Việc giáo dục, đào tạo nhân tài được thực hiện bởi các trường học, từ trường học của quốc gia, trường học ở địa phương, cho đến những ngôi trường tư thục do các thầy giáo tự lập ra để đào luyện con người. Thăng Long - Hà Nội nghìn năm qua nổi tiếng là mảnh đất thiêng của nền giáo dục Việt Nam. Nơi đây có Quốc Tử Giám Thăng Long - trường đại học sớm nhất và lớn nhất của quốc gia Đại Việt thời trung đại. Nơi đây có trường Đông Kinh nghĩa thục - ngọn cờ đầu của nền tân học Việt Nam thời cận đại. Nơi đây có nhiều ngôi trường tư thục nổi tiếng của các danh sĩ nối tiếp nhau trong suốt chiều dài lịch sử. Văn hiến Thăng Long - Hà Nội thể hiện trước hết và hơn hết, là sự tụ hội, thăng hoa và tỏa rạng trong suốt nghìn năm qua, là nơi biểu tượng bền bỉ bậc nhất của nền học vấn: các ngôi trường học xưa trên đất Thăng Long - Hà Nội.
2211 lượt xem
Cộng đồng tộc người ở Nam Bộ và Tây Nguyên
Chu Thái Sơn

Tây Nguyên là vùng đất của các cao nguyên miền tây Trung Bộ, nằm ở sau dãy núi Trường Sơn Nam, còn gọi là Tây Trường Sơn. Các cao nguyên ở đây có độ cao từ 1.200m, xuống đến 500m. Từ bắc qua nam có các cao nguyên nổi tiếng như:

Ở đầu bắc có cao nguyên Kon Plông nằm giữa hai dãy núi An Khê về phía đông và Ngọc Krinh về phía tây. Tiếp sau là cao nguyên Kon Hà Nừng rồi đến cao nguyên Pleiku rộng lớn. Tại miền Trung Tây Nguyên có cao nguyên Buôn Ma Thuột và cao nguyên M’đrăk về phía đông; cao nguyên Đăk Nông về phía tây. Xuống nam Tây Nguyên có các cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên), cao nguyên Đran (Đơn Dương) và cao nguyên Blao (Bảo Lộc). Ranh giới phía nam các tỉnh Đăk Nông (nay là tỉnh Lâm Đồng) và Lâm Đồng là vùng đất Nam bộ với đồng bằng sông Cửu Long và miền đất cao ở phía đông.

Ngoài cư dân Việt (Kinh), trên toàn khu vực nói trên là địa bàn sinh sống chủ yếu của 15 tộc người, trong đó 11 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, chiếm quá nửa số lượng tộc người nhóm Môn - Khmer trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó là 3 trong số 5 tộc người nhóm ngôn ngữ Malayo - Polynesian thuộc ngữ hệ Nam Đảo; và chỉ có duy nhất một tộc người Hoa được giới thiệu ở tập hợp này.

Về tộc người Hoa thì tổ tiên họ lần hồi có mặt trên vùng núi Bắc Bộ từ thời Bắc thuộc. Còn tại Nam Bộ, họ mới di cư tới từ năm 1679 vào đời Chúa Nguyễn Phúc Tần (tức Chúa Hiền). Với những cộng đồng tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer thì bán đảo Đông Dương đã là nơi sinh tụ của tổ tiên họ từ nhiều thiên niên kỷ trước Công nguyên, khi mà những tộc người có nguồn gốc Nam Đảo còn chưa có mặt trên đồng bằng ven biển miền Trung và các cao nguyên miền Tây Trung Bộ như ngày nay.

Cuốn sách này giới thiệu khái quát những nét chính về 15 cộng đồng tộc người sinh sống ở khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, bao gồm: Lược sử tộc người, Cuộc mưu sinh, Tập quán sinh hoạt, Phong tục cổ truyền, Đời sống tâm linh và Văn học - nghệ thuật dân gian. Đặc biệt nhấn mạnh về văn hóa truyền thống ở 11 tộc người Môn - Khmer với nhiều thang bậc phát triển từ thấp đến cao, và lưu giữ được nhiều thành tố văn hóa từ rất xa xưa, soi tỏ không ít những dấu ấn của văn hóa truyền thống hiện tồn. Trên đất nước Việt Nam, cộng đồng ngôn ngữ Môn - Khmer có 21 tộc người. Họ phân bố dân cư ở 3 khu vực với những ảnh hưởng khác nhau từ các địa bàn cư trú. Khu vực Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ có quá nửa số lượng tộc người. Văn hóa cội nguồn còn lưu giữ được dưới nhiều dạng tồn tại khác nhau, ít chịu ảnh hưởng văn hóa ngoại tộc.

Những tộc người này được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới theo thứ tự dựa vào kết quả của cuộc Tổng điều tra về dân số và nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê công bố.

Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những sai sót, sơ suất, chúng tôi rất mong bạn đọc lượng thứ và xin nhận được những góp ý chân thành.

2589 lượt xem
Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam các tỉnh phía bắc
PSG. TS Hoàng Lương
Cuốn sách “Lễ hội truyền thống các dân tộc Việt Nam - các tỉnh phía Bắc” giúp người đọc nắm bắt một cách có hệ thống, toàn diện những nghi thức, nghi lễ và nội dung của các lễ hội, các hình thái tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam. Qua đó, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của lễ hội đối với đời sống tinh thần của cộng đồng để trân trọng, kế thừa phát huy những cái hay, nét đẹp của chúng góp phần xây dựng nền văn hóa các dân tộc Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nội dung cuốn sách gồm 3 phần: Phần I: Lý thuyết chung về lễ hội truyền thống các dân tộc ở Việt Nam. Phần II: Một số lễ hội tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam. Phần III: Những giá trị của lễ hội tiêu biểu các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam. Phần IV: Một số hình ảnh minh họa của lễ hội truyền thống.
1904 lượt xem
Hanoi Famous People
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thang Long - Hanoi is the sacred land of Vietnam, which boasts spirit accumulation for one thousand years. It is the place that has created and fostered a great number of heroic, famous people, who are strikingly brilliant mirrors throughout the history of the nation. Over the past one thousand years, since the country’s foundation, there has always been a large number of those who have contributed to the nation’s history. They are sparkling stars in the history of Thang Long - Hanoi. Hanoi famous people, who were born and grew up in the beloved 1,000-year-old land, contributed their intelligence and strength to build and protect the country. In addition, they played significant roles in the society with decisive contributions to the course of the national history. They engraved their names and homeland into the history with their reputation, achievements and merits in their devoted life-time to the nation. Thang Long - Hanoi is about to reach its 1,000th birthday with the opening of a new development period and powerful vitality of the land. On reviewing its typical representatives, famous people, we can see the people who, with their own mind and soul, energy and enthusiasm, significantly contributed to the creation of the noble and immortal Thang Long...
1071 lượt xem
Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)
Lâm Kiến Hoa và nhiều tác giả 林建华 等著

Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)

Nền dân chủ nhân dân toàn quá trình của Trung Quốc (中国的全过程人民民主)

3101 lượt xem
Tiếp tục đổi mới lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới (Sách chuyên khảo)
Nguyễn Viết Thảo

Tiếp tục đổi mới lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới (Sách chuyên khảo)

739 lượt xem
Sinh hoạt nghệ thuật dân gian Hà nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Từ rất xa xưa, trong lịch sử ngàn năm Thăng Long - Hà Nội, những lễ hội dân gian như hội Đền Gióng, hội Đền Cổ Loa, hội Đền Hai Bà đã được các vương triều phong kiến Việt Nam nâng lên thành quốc lễ. Đồng thời, những loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian, từ múa rối đến hát chèo... cũng được chủ động kế thừa và phát triển. Văn hoá cung đình bắt nguồn từ văn hoá dân gian, rồi chính văn hóa cung đình lại góp phần nâng cấp, phát triển văn hóa dân gian. Sự kết hợp hài hòa, bện quyện, sự tồn tại song hành, đan xen giữa hai dòng văn hoá đó đã tạo nên một phức thể văn hóa nghệ thuật độc đáo trên mảnh đất Thăng Long - Hà Nội. Hầu hết những loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ đều có sự hiện diện ở Thăng Long - Hà Nội. Vùng nông thôn rộng lớn (Kẻ Quê) bao quanh Kẻ Chợ chính là nơi lưu trữ, phát triển nền văn nghệ dân gian với những làn điệu dân ca độc đáo, đặc sắc. Rồi từ Kẻ Quê, các loại hình sinh hoạt nghệ thuật dân gian này thâm nhập vào Kẻ Chợ, bồi đắp, làm phong phú thêm đời sống văn nghệ Thăng Long - Hà Nội. Và cũng chính tại đây, những nghệ sĩ của Thăng Long - Hà Nội đã đưa vào đó những nét riêng của mình, để rồi cũng là Ca trù, cũng là hát chầu văn, cũng là hát xẩm, cũng là hát chèo... nhưng được thể hiện trên mảnh đất Thăng Long - Hà Nội bởi những nghệ sĩ của Thăng Long - Hà Nội đã mang những dáng nét, bản sắc riêng độc đáo, trở thành Chiếng chèo cổ xứ Đoài, hát xẩm phố cổ Hà Nội...
2167 lượt xem
100 điều nên biết về phong tục cưới hỏi các dân tộc Việt Nam
Ha Nguyen

Hôn nhân không chỉ là bước chuyển trọng đại trong chu kỳ vòng đời người mà còn là một sự kiện quan trọng đối với mỗi gia đình, dòng họ, làng xóm... Ngoài các quy định của pháp luật, hôn nhân cần được xác lập thông qua các phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác và luôn biến đổi theo thời gian. Bởi vậy, phong tục cưới hỏi không chỉ là một trong những nghi lễ quan trọng của chu kỳ vòng đời người, mà còn phản ánh rõ nét
đặc điểm văn hóa tộc người với những dấu ấn truyền thống và hiện đại. Từ xưa đến nay, các dân tộc Việt Nam đều rất chú trọng phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi vừa là một sinh hoạt văn hóa tâm linh, vừa là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phong tục cưới hỏi chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống đã được chắt lọc, kết tinh qua nhiều thế hệ, như lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa nghệ thuật... và có tác động sâu sắc đến việc hình thành cốt cách, tình cảm, diện mạo văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Phong tục cưới hỏi là một phần không thể thiếu đối với mỗi gia đình, dòng họ và cộng đồng, một thành tố quan trọng góp phần cấu thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

4697 lượt xem
85 Chân dung Văn hóa, Văn chương Việt - Tập 1
GS. Phong Lê

Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”, và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội. 

Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp. 

Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập. 

Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh. 

Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được. 

m 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.

Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.

3466 lượt xem
Phóng sự báo chí - Lý thuyết, kỹ năng và kinh nghiệm
TS. Nguyễn Quang Hòa
Bằng một cách nào đó, bạn đã có và bắt đầu đọc cuốn sách này, điều đó có nghĩa trong huyết quản của bạn đã có “máu” của một người viết phóng sự. Đây là cuốn sách được biên soạn để hỗ trợ việc giảng dạy môn Phóng sự báo chí cho sinh viên năm thứ ba, bên cạnh giáo trình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ở thời điểm này, sinh viên đã được học lịch sử báo chí, cách viết tin, quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí, làm quen với một số thể loại báo chí khác như Tường thuật, Ghi nhanh. Học nghề báo không thể chỉ nghe, đọc tài liệu mà rất quan trọng phần trao đổi, hướng dẫn của những người giàu kinh nghiệm trong quá trình thực hiện đề tài cụ thể. Bởi vậy, cuốn sách này ngoài cung cấp những kiến thức cơ bản về thể loại Phóng sự báo chí như: Hoàn cảnh lịch sử ra đời và phát triển của phóng sự, các dạng phóng sự, các quan niệm khác nhau về thể loại phóng sự cũng như các đặc điểm của thể loại này; những tố chất cần có của người viết; sách còn dành nhiều trang đề cập tới cách vượt qua những khó khăn khi tác nghiệp trong thực tế và cách thể hiện để bài viết sinh động, cuốn hút; cả những vấp váp của tác giả và những đồng nghiệp để bạn đọc tham khảo, sau này tránh lặp lại.
3898 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Đông
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Đông, hay xứ Hải Đông, là tên gọi dân gian để chỉ tiểu vùng văn hóa nằm ở mạn phía đông của vùng đồng bằng sông Hồng, chủ yếu bao gồm tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng hiện nay. Lấy Thăng Long - Kẻ Chợ làm trung tâm, có thể chia 4 phần còn lại của đồng bằng Bắc Bộ - tam giác châu sông Hồng và sông Thái Bình thành “tứ trấn” (tứ chiếng): Hải Đông trấn (lộ, xứ) tức xứ Đông; Sơn Tây trấn (xứ) tức xứ Đoài; Sơn Nam trấn (xứ) tức xứ Nam; Kinh Bắc trấn (xứ) tức xứ Bắc. Còn miền núi phía Bắc và từ Thanh, Nghệ trở vào Nam thì đều là vùng ngoại vi đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Với cách phân chia như vậy, xứ Đông gần như nằm trọn trong lưu vực sông Thái Bình. Hệ thống sông Thái Bình bị chi phối mạnh bởi chế độ thủy triều nên đất đai ở xứ Đông không màu mỡ như ở xứ Nam. Nguồn sống chính của cư dân nơi đây chủ yếu dựa vào đánh bắt thủy hải sản kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Thủ công nghiệp trong vùng cũng khá phát triển, đặc biệt tập trung quanh các khu vực kế cận thành phố Hải Dương, thành phố Hải Phòng với số lượng ngành nghề đa dạng, phong phú, như nghề làm vật dụng (chiếu, nón, lược, mũ, giầy dép), nề, mộc, chạm khắc, đan mây tre, chế biến lương thực thực phẩm, khắc ván in sách... Xứ Đông có vị chí chiến lược quan trọng. Từ Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) có 6 đường thủy bộ đi ra biển và tiến vào đất liền, kết nối với Thăng Long - Hà Nội. Cũng chính vì lý do đó nên hoạt động thương mại ở nơi đây diễn ra từ rất sớm. Buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển suốt một dải ven biển Hải Phòng và mở rộng ra khu vực lân cận, tạo thành những đầu mối giao thương không chỉ của thương nhân khắp mọi miền đất nước Việt Nam mà còn của khách buôn ngoại quốc đến từ Trung Quốc, Cao Ly (Triều Tiên), Ấn Độ... Văn hóa xứ Đông có sự hội tụ, hỗn dung giữa văn hóa nông nghiệp (đồng bằng) và văn hoá biển (vùng duyên hải, hải đảo). Quá trình đô thị hoá (nhất là từ thời Pháp thuộc với các trung tâm công nghiệp, khai mỏ...) làm phong phú, đa dạng hơn văn hóa nơi đây nhờ sự tiếp nhận những yếu tố mới ảnh hưởng từ bên ngoài. Cư dân xứ Đông khá phức tạp. Cộng đồng cư dân nơi đây là kết quả của nhiều đợt di cư trong lịch sử. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ I, chính quyền đô hộ Đông Hán chuyển một bộ phận người dân từ miền trung du xuống ven biển làm muối và khai thác hải sản. Theo sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (dòng họ Vũ “tổ tiến sĩ” ở Mộ Trạch, Bình Giang, Hải Dương) thì Hải Đông là quê hương nguyên thủy của nhà Trần thuở hàn vi lưu lạc, sau mới dời về Tức Mặc - Thiên Trường (Nam Định). Tiếp đó, dân cư từ các vùng khác cũng đến khẩn hoang, lập làng. Cũng có trường hợp những người vượt biển từ phía bắc xuống, phía nam lên. Từ muôn nẻo, các nhóm cư dân kẻ trước người sau cùng tới mảnh đất này, cộng cư lâu dài, tạo thành một cộng đồng cư dân mới trong vùng.
2165 lượt xem
Nghiên cứu dư luận xã hội
Khoa Xã hội học và phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, TS. Dương Thị Thu Hương
Dư luận xã hội là hiện tượng xã hội phức tạp, đa chiều cạnh, có thể tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau: tâm lý học; chính trị học, truyền thông, xã hội học... Cuốn sách “Nghiên cứu Dư luận xã hội” tập trung giới thiệu các kiến thức cơ bản về Dư luận xã hội, đặc biệt dành nhiều trang trình bày về các phương pháp, kỹ thuật và quy trình nghiên cứu Dư luận xã hội từ tiếp cận Xã hội học. Với kiến thức được trang bị, người học không chỉ có được nền tảng hiểu biết đầy đủ về Dư luận xã hội, các biện pháp quản lý Dư luận xã hội phù hợp, họ còn được trang bị kiến thức, kỹ năng tiến hành các nghiên cứu Dư luận xã hội bài bản, khoa học, hiệu quả. Cuốn sách là tài liệu giảng dạy chính thức cho bậc cử nhân ngành Xã hội học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đồng thời là sách tham khảo cho sinh viên và học viên cao học, NCS các ngành khác: báo chí, truyền thông, tuyên truyền, truyền thông chính sách, công tác xã hội tại Học viện cũng như tại nhiều cơ sở đào tạo sinh viên ngành Xã hội học và các ngành báo chí, truyền thông khác trên toàn quốc. Cuốn sách cũng giúp cho cán bộ nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực có thể tự tìm hiểu và vận dụng tiến hành nghiên cứu Dư luận xã hội theo đúng trình tự, đáp ứng yêu cầu chuẩn mực nghiên cứu, từ đó đem lại kết quả khách quan, đáng tin cậy, là cơ sở để xây dựng các chiến lược quản lý phát triển hiệu quả xã hội.
2901 lượt xem
Hồ sơ văn hóa Mỹ (A File on American Culture)
Hữu Ngọc
Trong không khí trao đổi văn hóa quốc tế từ sau cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, vấn đề tìm hiểu văn hóa Mỹ được đặt ra, nhất là sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận (1994). Ở nước ta, có một kho tàng trước tác phong phú bằng tiếng Việt về những nền văn hóa châu Á - đặc biệt về Trung Quốc, Ấn Độ - và các nước Đông Âu. Đối với các nền văn hóa phương Tây, chúng ta biết rõ nhất là văn hóa Pháp. Đối với văn hóa Mỹ, nhất là ở phía Bắc vĩ tuyến 17, chúng ta chưa có một cuốn sách nào trình bày một cách sâu sắc và có hệ thống. Trong khi chờ đợi một tác phẩm bác học và toàn vẹn như thế, chúng tôi muốn đóng góp một phần khiêm tốn vào vấn đề ấy. Sách này bắt đầu bằng hai câu hỏi: “Có một nền văn hóa Mỹ hay không? Nếu có thì cái hay cái dở của nó như thế nào?” Chúng tôi đặt hai câu hỏi này cho hơn một chục bạn ở Mỹ (da trắng, da đen, da đỏ), Anh, Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Luxembourg; những bài trả lời được in nguyên, không bình luận, coi như bản dạo đầu với vấn đề. Cuốn sách là những cảm tưởng, ghi chép, bài nghiên cứu, phóng sự, phỏng vấn, đối thoại, bản dịch thơ và văn xuôi, bản tóm tắt tác phẩm, có cả thống kê và bảng khái quát, - đa số của tác giả, nhưng cũng có những đóng góp của bạn bè Mỹ và người nước ngoài khác, một số bài của báo chí quốc tế. Cuốn sách này là một tập Hồ sơ văn hóa Mỹ. Vì là hồ sơ nên không khỏi không có ý lặp lại hoặc đối lập. Chúng tôi tôn trọng sự tự do lựa chọn của độc giả.
2468 lượt xem
Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số
PGS.TS Trần Thị Việt Trung

Cuốn sách Nghiên cứu, phê bình về văn học dân tộc thiểu số dày dặn (hơn 400 trang), bao gồm 2 phần: - Phần I: Nghiên cứu về văn học các DTTS dưới góc độ thể loại; - Phần II: Phê bình tác giả, tác phẩm văn học DTTS. Đây thực sự là một cuốn sách vừa công phu, có tính lý luận, tính thực tiễn, tính khoa học lại vừa có chất tài hoa, nghệ sĩ của một nhà thơ làm lý luận phê bình văn học. Điểm nhấn của cuốn sách chính là phần tác giả viết về tình hình và đặc điểm của mảng nghiên cứu, lý luận phê bình văn học DTTS Việt Nam (Chương 3 - Phần I). Đây có lẽ là phần viết có tính mới, tính khoa học rõ rệt nhất và cũng là phần đóng góp mới, có giá trị của nhà nghiên cứu, phê bình Trần Thị Việt Trung - trong việc bổ sung, hoàn thiện bức tranh chung của đời sống lý luận phê bình văn học Việt Nam sau 1945. Bởi trong các công trình nghiên cứu về lý luận phê bình văn học Việt Nam nói chung hiện nay - hầu như mảng lý luận phê bình văn học DTTS còn rất ít được nhắc tới; hoặc có được nhắc tới (trong một số bài báo, bài nghiên cứu lẻ) thì cũng mới chỉ ở dạng điểm qua, thiếu tính hệ thống và chưa có cái nhìn toàn diện. Phần II của cuốn sách (phê bình tác giả, tác phẩm) với lối viết phê bình, lối dựng chân dung đầy sắc sảo, tài hoa đã thể hiện khá rõ chất “nữ tính” trong từng trang viết của tác giả. Dồn bao tình cảm, trí tuệ và sự đam mê của mình vào việc nghiên cứu văn học các DTTS - PGS.TS Trần Thị Việt Trung đã mang đến cho bạn đọc cả nước nói chung, đồng bào các DTTS nói riêng những tác phẩm, những công trình nghiên cứu đầy công phu và tâm huyết của mình.

2012 lượt xem