Văn học - Nghệ thuật
Truyện ngắn Lào đương đại (Tái bản lần thứ 1)
Hồng Toàn, Vănmay Xuckoongmy
Truyện ngắn Lào đương đại kể lại những truyện để bạn đọc hình dung ra thiên nhiên và con người Lào. Họ hiền lành, mộc mạc và đáng yêu biết bao, và chắc chắn truyện của họ cũng phản ánh được cuộc sống và tính cách ấy. Trong 5 năm ở Lào, tác giả có may mắn là đã đi tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa tại các địa phương, ngoài thủ đô Viêng Chăn. Vì thế đến được hết các tỉnh và nhiều huyện, các vùng nông thôn của nước Lào. Phía bắc thì qua Luông Pha Bang, U Đôm Xay, Luông Nặm Thà, Bò Kẹo, qua phà Huổi Xay trên sông Mê Kông sang Xiêng Không, Xiêng May (Thái Lan). Hoặc xuống Xay Nhabuli, hoặc ngược U Đôm Xay lên Phong Sa Lỳ, về Hủa Phăn, Sầm Nưa, xuống Xiêng Khoảng để đến cánh đồng Chum bí ẩn mênh mang. Phía nam theo đường quốc lộ Mười Ba qua các tỉnh Trung Lào, qua bến phà Thà Khẹt, nơi ghi dấu ngày đẫm máu năm 1944, đến các vùng lăm vông nổi tiếng Sa La Văn, Sê Kông, At Ta Pư, Chăm Pa Sắc, đến tận Chùa Vát phu cổ kính, thác Pa Pêng nằm giữa sông Mê Kông hùng vĩ, ngã ba của ba nước Lào, Thái Lan và Cam-pu-chia. Mọi người đến Lào đều có chung một cảm nhận là phong cảnh đất nước này đẹp, không khí trong lành, xã hội thanh bình, nhẹ nhàng, cuộc sống ở đây thanh thản, chậm rãi... Không gian hiền hòa và tĩnh lặng, mật độ dân số thưa thớt, tốc độ đô thị hóa chậm, tài nguyên thiên nhiên còn nguyên vẹn, nhu cầu cuộc sống giản dị, bình yên... Hiện thực ấy cùng với các triết lý của Phật giáo ngấm sâu vào lối sống từ hàng ngàn đời đã tạo nên một lối sống dân tộc: lối sống thanh nhàn, giản dị và trong sáng. Người ngoài không hiểu, cứ nghĩ là một lối sống nhàn tản, chậm chạp. Triết lý ấy, phong cách ấy làm cho cuộc sống thanh thản, ít bon chen, chân thành và chân chất. Người Lào hiền lành từ những điều ấy.
1121 lượt xem
Văn học Việt Nam (1900-1930)
GS. Phong Lê (Chủ biên)

Tập này trình bày lịch sử văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930. Đây là thời kỳ xã hội Việt Nam, sau khi thực dân Pháp dẹp xong phong trào Cần vương, đã chuyển sang chế độ bán phong kiến thuộc địa. Trong bối cảnh mới của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội là sự hình thành một nền văn học mới, trong chuyển động gấp rút từ trung đại sang hiện đại.
Cuốn sách được viết bởi các tác giả: GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Nguyễn Đình Chú, PGS. Nguyễn Văn Hoàn, GS. Phong Lê, PGS.TS. Trần Nho Thìn, PGS.TS. Phan Trọng Thưởng, PGS.TS. Trần Ngọc Vương. GS. Phong Lê chịu trách nhiệm Chủ biên. PGS.TS. Lưu Khánh Thơ phụ trách Thư ký công trình. Cấu trúc tập sách gồm 2 Phần, 18 Chương (không kể Chương Mở đầu và Kết luận), với quy ước về số trang - do Chủ biên khởi thảo và đã được các tác giả đồng thuận. Nhưng do nhiều người viết, và mỗi tác giả chịu trách nhiệm chính về phần viết của mình ở tư cách chuyên gia, nên một sự nhất trí về quan niệm và ý tưởng chung cho toàn bộ chỉ là tương đối (thậm chí có thể có sự khác nhau trong quan niệm, cách hiểu và sự đánh giá về một số hiện tượng nào đó); và sự chặt chẽ về cấu trúc và nội dung là khó thực hiện được như yêu cầu của công trình, và mong muốn của các tác giả

2239 lượt xem
Biên niên sử phong trào thơ mới Hà Nội (1932-1945) - tập 2
Nguyễn Hữu Sơn

Cuốn sách sưu tầm, tổng hợp, thống kê các nguồn tài liệu trên sách báo, ấn phẩm xuất bản trước năm 1945 nhằm đưa đến một cái nhìn hệ thống, toàn cảnh về tất cả các vấn đề, sự kiện, hiện tượng liên quan đến phong trào Thơ mới Hà Nội. Với định hướng đó, đúng như tên gọi, cuốn sách lựa chọn cách trình bày tư liệu theo thể thức biên niên với 14 mục tương ứng với 14 năm - quãng thời gian Thơ mới xuất hiện và thoái trào, từ 1932 đến 1945. Trong mỗi năm, sự kiện sẽ được sắp xếp, trình bày theo cấp độ từng tháng, từng ngày theo đúng trật tự xuất hiện là thời điểm được xuất bản trên các ấn phẩm.

1232 lượt xem
Nghệ thuật học
Lưỡng quốc Tiến sĩ Đỗ Văn Khang
Cuốn Nghệ thuật học lần này là sự tái tạo và nâng cao của những thành tựu mà tác giả Lưỡng Quốc Tiến sĩ Khoa học Đỗ Văn Khang và các cộng sự mới hoàn thành. Nếu bản chất con người là luôn sáng tạo theo quy luật cái đẹp (C. Mác), thì Nghệ thuật học là khoa học nghiên cứu quá trình bộc lộ bản chất Người ở trình độ cao trong thành tựu sáng tạo Văn hóa - Thẩm mĩ. Nghệ thuật học lấy cái đẹp làm phạm trù cơ bản và trung tâm, hình tượng là tiếng nói đặc trưng, và lý tưởng thẩm mĩ làm cơ sở để xem xét quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nghệ thuật. Từ đó nghệ thuật học có các nhiệm vụ chính sau đây: 1) Toàn bộ sự phát triển của tác giả, tác phẩm, các thời đại nghệ thuật đều được xem xét, đánh giá trên cơ sở nó đã khám phá, sáng tạo cái đẹp, đã biểu hiện lí tưởng thẩm mĩ, đã phát hiện nhân vật thời đại như thế nào. 2) Là một khoa học đi sâu vào quy luật hình thành, phát triển và chỉ ra quá trình tạo phong cách nghệ thuật thời đại, Nghệ thuật học không thể đi quá chi tiết vào thành tựu nghệ thuật của các thời đại nghệ thuật. Nó chỉ có thể chọn lọc các “chất liệu” cần thiết, tiêu biểu và điển hình để rút ra những đường nét lớn của quy luật mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, qua đó cung cấp cho sinh viên và bạn đọc yêu nghệ thuật cơ sở cần thiết nhất để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong thưởng thức và đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật. Tính thời đại của cuốn sách là ở chỗ, ngày nay thế giới dùng hai chỉ số để đánh giá con người đó là: IQ và EQ. IQ: Chỉ số thông minh (Intelligence quotient) EQ: Chỉ số nhạy cảm (Emotion quotient) Nếu con người chỉ thông minh thôi thì khả năng ứng phó và khả năng sáng tạo chưa thật cao. Một con người vừa thông minh lại vừa nhạy cảm thì khả năng bắt nhanh cái mới, sáng tạo cái mới sẽ cao hơn rất nhiều. Nghệ thuật học nhằm vào bồi dưỡng trình độ nhạy cảm cho con người. Cuốn sách này được hoàn thành với sự cộng tác của GS. Nguyễn Trân (viết mục 4 và mục 5 của chương 3), ThS. Đỗ Thị Minh Thảo (viết chương 4 và mục 8 chương 7), Nguyễn Ngọc Ánh (viết chương 5). Toàn bộ những phần còn lại là do Lưỡng Quốc Tiến sĩ khoa học Đỗ Văn Khang viết.
1266 lượt xem
Nước non vạn dặm - Lênh đênh bốn biển - Tập 1
Nguyễn Thế Kỷ

Tập I- Nợ nước non là tập vô cùng quan trọng hay có thể nói là tập quan trọng nhất của bộ tiểu thuyết này. Đấy là chặng đường quan trọng nhất để hình thành một con người, đặc biệt là một vĩ nhân với những yếu tố vô cùng quan trọng: gia đình, hoàn cảnh lịch sử đất nước, thế giới, điều kiện sống, giáo dục, tư chất, những vẻ đẹp tâm hồn, sự quan sát đời sống, chặng đường nhận thức của nhân vật...Đây cũng là tập mà nếu nhà văn không thuyết phục được bạn đọc, không tạo ra sự đợi chờ của bạn đọc cho những tập tiếp theo thì nghĩa là bộ tiểu thuyết đã kết thúc với bạn đọc cho dù nhà văn đang tiếp tục viết. Và tôi, một bạn đọc đầy cảm hứng để đọc bộ tiếu thuyết này với nhiều lo lắng cho chính tác giả. Nhưng giờ đây, tôi đã đọc xong Nợ nước non và bắt đầu đợi những tập tiếp theo.

4178 lượt xem
Kiến trúc Thăng Long - Hà Nội
Lê Văn Lân

Tiếp cận cuốn sách bạn đọc có những hình dung về bức tranh kiến trúc Thăng Long - Hà Nội, hiểu được quá trình hình thành diện mạo kiến trúc Thăng Long từ những tụ cư bên sông Hồng tới Đại La, định đô Thăng Long và diện mạo ban đầu, Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ, Thăng Long thời Lê - Mạc - Tây Sơn, Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn; những xây dựng đầu tiên của Pháp ở Hà Nội, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, cấu trúc không gian đô thị thời Pháp thuộc. Bên cạnh đó là diện mạo kiến trúc Hà Nội từ hoà bình trở lại đến những năm đổi mới, những hình ảnh quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội năm 2011 và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Vùng Thủ đô; kiến trúc Hà Nội thời kỳ mới hội nhập, thời kỳ của kỹ thuật công nghệ mới và biến động của kinh tế - xã hội, kiến trúc Hà Nội nhìn về phía trước.

1910 lượt xem
Nam Cao - Sự nghiệp và chân dung
GS. Phong Lê
Viết về Nam Cao, soạn một cuốn sách về Nam Cao, ở thời điểm kỷ niệm 100 năm năm sinh (1915-2015), tác giả nghĩ đến cái hậu của một đời người và một đời văn đã được lưu lại nơi phần mộ cùng ngôi Nhà tưởng niệm Nam Cao trên đất quê Đại Hoàng đã được khánh thành cách đây hơn 10 năm và khu Vườn hiện thực Nam Cao đã từng khơi gợi rất nhiều hứng thú sáng tạo cho giới họa sĩ vào đầu năm 2006 ở Hà Nội. Thuộc trong số những người yêu mến và ngưỡng mộ Nam Cao, tác giả rất cảm động vì sự tôn vinh xứng đáng đó; và đồng thời cũng là một sự bù đắp - bởi sự hy sinh quá sớm của Nam Cao ở tuổi 36, với tư cách một nhà văn - liệt sĩ, trong chuyến về công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba, vào ngày 30/11/1951; và còn phải chờ tiếp hơn 46 năm sau đó, cho đến ngày 18/1/1998 thì di hài của ông mới đưa được về quê nhà cho một cuộc yên nghỉ vĩnh viễn. Đề tài về Nam Cao là đề tài tác giả theo đuổi từ hơn nửa thế kỷ qua nếu tính từ những bài viết đầu tiên về Nam Cao. Nhưng phải đến năm 1997, tác giả mới công bố cuốn sách mang tên Nam Cao - phác thảo sự nghiệp và chân dung. Gọi là “phác thảo” bởi tác giả vẫn chỉ muốn xem đây như là sự chuẩn bị trên con đường thâm nhập vào sự nghiệp sáng tạo của một nhà văn lớn thế kỷ XX mà tác giả là một bạn đọc rất mực yêu mến và chuyên cần. Nhân chuẩn bị kỷ niệm 100 năm năm sinh Nam Cao, tác giả tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cuốn “phác thảo” cũ, nhằm mở rộng và đi sâu hơn vào di sản quý giá của Nam Cao, mà tác gả tin còn chưa hoặc sẽ không bao giờ khép lại trong tầm đón nhận của nhiều thế hệ bạn đọc.
1921 lượt xem
Thơ Thăng Long - Hà Nội qua Hà thành thi sao
Đỗ Thị Hảo

Các tác phẩm nghệ thuật được sáng tác bằng chữ Hán Nôm - sản phẩm tinh thần của nhiều thế hệ đi trước là di sản tư liệu quý giá, tái hiện lại những giá trị, bản sắc văn hóa, văn hiến của dân tộc qua nhiều chặng đường lịch sử. Khôi phục lại nguồn tư liệu này là việc làm cần thiết để thế hệ bạn đọc ngày nay có cơ hội hiểu hơn về những giá trị truyền thống. Đó là mục tiêu của rất nhiều ấn phẩm trong Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến, trong đó có công trình Thơ Thăng Long - Hà Nội qua “Hà thành thi sao” do PGS.TS. Đỗ Thị Hảo chủ biên. Hà thành thi sao - cuốn sách sao chép lại những thi phẩm viết về Thăng Long - Hà Nội - là một trong những công trình tinh tuyển đặc sắc nhất trong dòng thơ ca Hán Nôm viết về Thăng Long - Hà Nội từ trước đến nay. Công trình được nhà Hán học Nhàn Vân Đình Trần Duy Vôn dày công biên soạn và sao chép lại từ năm 1975. Ở tập sách này, ngoài những tác giả có đôi bài thơ về Thăng Long Hà Nội được trích từ Hoàng Việt thi tuyển, Truyền kỳ lục, Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ, v.v... thì còn có tới 7 thi phẩm riêng về Thăng Long - Hà Nội được sao chép lại, đó là: La thành cổ tích vịnh, Thăng Long tam thập vịnh, Thăng Long thập cửu vịnh, Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, Long Biên bách nhị vịnh, Long Biên ái hoa hội, An Nam kinh đô bát cảnh.

1917 lượt xem
Những bức thư đoạt giải Cuộc thi UPU (lần thứ 33)
Bộ Bưu chính Viễn thông
Với chủ đề “Tôi viết thư trao đổi với bạn: Thiếu nhi chúng mình có thể làm gì để góp phần xóa đói giảm nghèo”, Cuộc thi viết thư Quốc tế UPU lần thứ 33 do Bộ Bưu chính - Viễn thông Việt Nam (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Liên minh Bưu chính Thế giới lần thứ 33 (09/10/2004) đã thu được những kết quả tốt đẹp. Sau 03 tháng phát động (từ 14/11/2003 đến 15/02/2004) đã có 3.247.395 bài của thiếu nhi trên khắp mọi miền Tổ quốc tham gia dự thi. Ban giám khảo cuộc thi UPU lần thứ 33 đã chấm và chọn ra 84 bài lọt vào vòng chung khảo. Việc phổ biến, giới thiệu những bức thư đoạt giải cao hàng năm tới bạn đọc đã nhận được sự yêu thích, hưởng ứng của đông đảo đối tượng là các em học sinh, các giáo viên, các bậc phụ huynh trên mọi miền Tổ quốc. Nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông quyết định xuất bản dưới dạng điện tử cuốn sách "Những bức thư đoạt giải cuộc thi UPU lần thứ 33" (đã được xuất bản dưới dạng sách in năm 2004) để mang đến cho bạn đọc một hình thức trải nghiệm mới. Nội dung cuốn sách gồm 03 bài đoạt giải Nhất, Nhì, Ba Quốc tế (song ngữ) và 40 bài đoạt giải Nhất, Nhì, Ba và Khuyến khích Quốc gia. Hi vọng, cuốn sách sẽ là người bạn tâm tình giúp các em học sinh trau dồi hơn nữa khả năng cảm thụ văn học, nâng cao tinh thần trách nhiệm với xã hội, đất nước, có thêm những kinh nghiệm để tham dự các cuộc thi UPU tiếp theo. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách và mong nhận được nhiều ý kiến góp ý của các bạn và các em./.
996 lượt xem
Thơ biển, đảo và tình yêu người lính
Bùi Văn Đồng
Biển đảo là một phần máu thịt không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam, của nhân dân Việt Nam. Từng tấc đất, từng "thỏi vàng xanh" cha ông ta tự bao đời đã được những người lính, những người chiến sĩ âm thầm canh giữ, bảo vệ. Trên mặt trận bút nghiên, những nhà thơ cũng gửi gắm tình yêu và quyết tâm giữ gìn biển đảo qua những vần thơ, con chữ. "Thơ biển, đảo và tình yêu người lính" của Đại tá, Nhà báo, Nhà văn Bùi Văn Bồng gồm 38 bài thơ đặc sắc. Mỗi bài thơ là một cung điệu trong bản nhạc "hồn thiêng non nước" cùng tấu lên sự rung cảm, tấm lòng yêu của những người con đất Việt hướng về nơi đầu sóng ngọn gió. Tình đồng chí, đồng đội của người lính hải quân, tình yêu mênh mông sóng vỗ dạt dào hòa vào tình yêu đất nước. Dưới ngòi bút giàu xúc cảm của một người lính nhiều trải nghiệm, hình ảnh về cuộc sống và con người nơi biển, đảo hiện lên sống động, gần gũi, thân quen. Những khuôn mặt rám nắng, mặn mòi nắng biển, gió biển, những rung động con tim nơi đất liền cùng dòng máu, cùng nhịp đập "cứ ngân vang Tiếng nói Việt Nam"... Thơ Bùi Văn Bồng đẹp, giản dị, sâu sắc, "trải hết lòng cùng mênh mông biển biếc/ nhạc và thơ tha thiết biển quê hương…". Hôm nay, ngày mai và cả tận sau này tình yêu về biển, đảo và những người lính biển sẽ không bao giờ tắt mà như một ngọn đuốc vẫn bùng cháy mãnh liệt ngày đêm. Những câu chuyện cổ tích lại sẽ mở ra, tiếp nối và sâu đậm trong màu xanh lam của biển, trong những vần điệu "Thơ biển, đảo và tình yêu người lính" mãi mãi yêu thương…
1034 lượt xem
Đường về (Tiểu thuyết)
Hồ Bất Khuất
Năm 1993, tại Mat-xcơ-va, tôi nhìn thấy một cô gái trẻ có dáng vẻ thuần Việt. Nhưng rồi tôi thất vọng khi thấy cô cầm trong tay quyển hộ chiếu Hoa Kỳ và nói tiếng Anh rất chuẩn. Tôi hỏi bằng tiếng Nga là cô có nói được tiếng Nga không. Cô trả lời bằng tiếng Việt là cô chỉ nói được tiếng Anh và tiếng Việt. Đấy là điều khá thú vị đối với tôi. Nhưng thú vị hơn cả là cô cho biết cô từ Mỹ sang Nga để học đại học. Cử chỉ, dáng điệu, giọng nói và mục đích của cô sang Nga ám ảnh tôi mãi. Năm 2002 tôi đặt bút viết tiểu thuyết “Đường Về”, trong đó có một tuyến nhân vật là Việt kiều sống ở Mỹ. Viết được mấy trang, tôi mới hiểu là mình chưa biết gì về cộng đồng người Việt sống ở Mỹ. Tôi xếp giấy bút lại. Tháng 9 năm 2004, tôi sang Mỹ. 11 tháng sống và học tập bên đó, tôi có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại người và hiểu ra rất nhiều vấn đề. Tôi mở máy tính ra (trước khi sang Mỹ tôi mới mua máy tính xách tay và học cách sử dụng), tiếp tục viết “Đường Về”. “Đường Về” - Một cái tên sách hiền lành, giản dị nhưng nội dung sách lại chứa đựng bao biến cố dữ dội đối với nhiều số phận người Việt, cũng như đối với đất nước. Viết về người Việt ở Mỹ không thể không nói tới cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua. Nói tới chiến tranh, không thể không đề cập tới những người lính từ miền Bắc vào Nam để chiến đấu. Thế là sự kiện gọi sự kiện, số phận buộc với số phận, hình thành nên không gian, thời gian đủ để tái hiện hoàn cảnh của đất nước Việt Nam, con người Việt Nam trong gần một thế kỷ qua. Huỳnh Phước Ân Thi được sinh ra vào đêm 30/4/1975 trên biển trong một con tàu cũ kỹ. Má cô bị chết sau khi cô ra đời được hơn chục tiếng đồng hồ. Ba cô bế cô trên tay, đăm đắm nhìn xác vợ từ từ chìm vào lòng biển... Thế rồi cô lớn lên khỏe mạnh, xinh đẹp, thông minh trên đất Mỹ. Khi biết quê cha, đất tổ của mình là Việt Nam, cô quyết tâm tìm cách trở về cho bằng được. Hành trình tìm đường từ Mỹ về Việt Nam của cô rất thú vị, vì nó vòng qua Mat-xcơ-va. Mat-xcơ-va cách xa Việt Nam hàng chục ngàn cây số, nhưng với nhiều người Việt Nam, thành phố này rất thân quen. Hơn thế nữa, nó còn in dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí họ. Trong giới trí thức người Việt, khi nhắc tới trường Đại học Tổng hợp Mat-xcơ-va mang tên Lomonosov là nhiều người bị lay động. Đây chính là nơi tạo nên tên tuổi của nhiều nhà khoa học Việt Nam hiện nay. Điều đáng nói là trường đại học này có cảnh quan hoành tráng và thơ mộng vào bậc nhất thế giới. Đây là nơi Huỳnh Phước Ân Thi tiếp xúc với những người đồng hương Việt Nam thuộc “chiến tuyến” khác. Và cô đã chinh phục được họ; hay chính cô bị họ chinh phục? Điều này không quan trọng. Cái quan trọng là cô đã được về Bến Tre, được gặp ông bà nội, được đi đó, đi đây, được sống ở Thủ đô Hà Nội... Và điều có ý nghĩa hơn cả là cô đã “bắc cầu” để ba cô - một viên tướng bại trận, người không hi vọng có cơ hội trở về Việt Nam nữa - đã trở về. Nhưng “Đường Về” không chỉ có vậy, nó không tròn trịa, viên mãn như truyện cổ tích. Trong “Đường Về” có nhiều tính cách, nhiều số phận gần với đời thực. Đất nước ta từ sau 1975 đến nay trải qua nhiều cung bậc. Trong cái ngổn ngang, quăng quật, khúc khuỷu của cuộc đời có nhiều sự kiện bi hài trong từng số phận. Tác giả không có tham vọng kết luận điều gì; chỉ mở ra, vẽ nên những điều có thực đã được “văn học hóa”, nghĩa là chúng có thể tập trung hơn, đậm đặc hơn, khốc liệt hơn, phong phú hơn, lãng mạn hơn, tươi đẹp hơn... những gì mà một người có thể chứng kiến. Nhưng như thế cũng chỉ mới nói được một phần của cuộc sống, bởi cuộc sống luôn luôn sâu thẳm và bí ẩn hơn những điều con người biết được. Hi vọng những ai đọc “Đường Về” sẽ tìm thấy ở đây những điều xốn xang trong tâm tưởng. Cái xốn xang này làm chúng ta đăm chiêu hơn trong cái nhìn để tìm niềm tin trong cuộc sống. Cái xốn xang này không có trên sân khấu, không có trong điện ảnh, chỉ có trong những con chữ.
1581 lượt xem
Văn học Việt Nam (1930-1945) - Quyển 1
GS. Hà Minh Đức (Chủ biên)

Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại. Quá trình hiện đại hóa diễn ra với nhiều cấp độ và
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu đứng về góc độ phân kỳ văn học mà xét thì mốc lớn 1945 chấm dứt gần một trăm năm nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp, khai sinh ra nhà nước dân chủ cộng hòa do nhân dân làm chủ được xem là chuyển động lịch sử lớn nhất của thế kỷ và cũng là của mọi hoạt động sáng tạo tinh thần trong đó có văn học. Từ 1945 cho đến hết thế kỷ XX, hơn nửa thế kỷ có hai giai đoạn lớn: thời kỳ 1945-1975 diễn ra hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp và chống Mỹ xâm lược. Từ 1975 cho đến năm 2000 là thời kỳ đổi mới của đất nước và cũng là của văn chương bao gồm hai giai đoạn nhỏ: tiền đổi mới 1975-1986 và đổi mới toàn diện 1986-2000. Trở lại với gần nửa thế kỷ đầu của văn học cũng có thể chia thành hai giai đoạn 1900-1930 và 1930-1945. Ba mươi năm đầu thế kỷ là thời kỳ hệ tư tưởng phong kiến suy thoái và được thay thế bằng những tư tưởng dân chủ tiến bộ. Ảnh hưởng của phương Tây, nhất là những tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp về bình đẳng, bác ái, tự do đã tác động đến tầng lớp tri thức và văn nghệ sĩ. Văn học Pháp ảnh hưởng trực tiếp đến văn học Việt Nam và góp phần hình thành nhiều thể loại và tạo thêm nhiều cái mới cho văn học.

4367 lượt xem
Văn học dân gian - Quyển 1
GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, PGS. TS. Nguyễn Thị Huế

Bộ Lịch sử văn học Việt Nam được biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về văn học Việt Nam của đông đảo bạn đọc và các nhà chuyên môn. Tổng Chủ biên là Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hà Minh Đức, cùng với sự tham gia cộng tác của rất nhiều nhà khoa học trong giới văn học ở các viện nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học trong cả nước.
Dựa trên kết quả phân kỳ lịch sử văn học, bộ Lịch sử văn học Việt Nam dự kiến gồm 10 tập. Tùy dung lượng, có tập sẽ chia thành nhiều quyển. Với mục tiêu tổng kết thực tiễn lịch sử văn học Việt Nam, bộ sách là công trình khoa học có chất lượng, có tính hệ thống và quan điểm khoa học hiện đại, góp phần khẳng định vị thế, vai trò của văn học Việt Nam với tư cách một lĩnh vực khoa học chuyên ngành và trong tương quan liên ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung.
Trong đó tập trung nhận thức, đánh giá và định giá các hiện tượng văn học, các giai đoạn văn học một cách khách quan, thỏa đáng đặt trong bối cảnh dân tộc, khu vực và quốc tế. Công trình là bức tranh đa dạng và phong phú với những đường nét riêng chung, mang tính tổng kết mười thế kỷ văn học với giá trị khoa học và thực tiễn lớn, hỗ trợ cho việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc ở các viện nghiên cứu và cho việc giảng dạy văn học sử Việt Nam ở các trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, các trường đại học sư phạm và trung học, đồng thời đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của đông đảo bạn đọc.
Bộ Lịch sử văn học Việt Nam lần này được sắp xếp theo các thời kỳ lịch sử của văn học, từ văn học dân gian đến văn học thành văn ở các giai đoạn thuộc thời kỳ trung đại, cận đại, hiện đại với những đỉnh cao của các phong cách sáng tạo. Sách có cấu trúc như sau:
Tập I: Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học dân gian
Tập II: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - hết thế kỷ XIV)
Tập III: Lịch sử văn học Việt Nam (thế kỷ XV)
Tập IV: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVI - thế kỷ XVII)
Tập V: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVIII - nửa đầu thế
kỷ XIX)
Tập VI: Lịch sử văn học Việt Nam (nửa sau thế kỷ XIX)
Tập VII: Lịch sử văn học Việt Nam (1900-1930)
Tập VIII: Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945)
Tập IX: Lịch sử văn học Việt Nam (1945-1975)
Tập X: Lịch sử văn học Việt Nam (1976-2000)
Mỗi một tập trong bộ Lịch sử văn học Việt Nam có một hoặc đồng tác giả chủ biên, được biên soạn theo phương châm cập nhật, chất lượng và cố gắng bám sát tiến trình các giai đoạn phát triển của Lịch sử văn học Việt Nam. Mỗi tập do một tập thể biên soạn là các nhà nghiên cứu có uy tín trong giới văn học trong nước cũng như trên trường quốc tế.

3766 lượt xem
Nước non vạn dặm - Lênh đênh bốn biển - Tập 2
Nguyễn Thế Kỷ

Khi đọc xong bản thảo Lênh đênh bốn biển, tập 2 trong bộ tiểu thuyết về con người vĩ đại Hồ Chí Minh có tên Nước non vạn dặm, tôi nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã dựng lên được con đường mà một vĩ nhân của dân tộc đã đi. Cũng chính lẽ đó mà nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã đi qua được chặng đường quan trọng nhất của bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm. Khi đọc đến trang cuối cùng của tập 2 Lênh đênh bốn biển, trong tôi vang lên bài thơ của nhà thơ danh tiếng Ko Un, người Hàn Quốc:
Con đường ra đi là con đường trở thành nhà sư
Con đường trở về mới là con đường để trở thành Đức Phật
Nhưng người chỉ có thể trở về khi đích thực ra đi. Và trong hai tập 1 và 2 của bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã dựng lên con đường ra đi và con đường trở về của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Con đường ra đi của Người chính là con đường yêu nước mang tên Nguyễn Tất Thành và con đường trở về đã biến người thanh niên ấy thành một con người mang tên Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, thành một thời đại mang tên thời đại Hồ Chí Minh.

4204 lượt xem
Diện mạo văn học cận hiện đại Lào - Tập 1
Nguyễn Đức Ninh

Bộ sách chia làm 2 tập: Tập 1: Diện mạo văn học cận hiện đại Lào (GS,TS Nguyễn Đức Ninh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á-Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam viết). Tập 2: Nhận diện văn xuôi Lào hiện đại - quá trình hình thành và đặc điểm phát triển của thể loại (GVC Trần Thúc Việt - Khoa Văn học - Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội viết). Ngoài ra, trong mỗi tập sách cũng được các tác giả tuyển chọn, giới thiệu một số tác phẩm thơ ca, truyện ký, tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học cận hiện đại Lào. Hy vọng, đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với bạn đọc trong và ngoài nước cũng như các bậc đào tạo nghiên cứu của Việt Nam về một thời đại văn học mới ở Lào. Trân trọng giới thiệu Bộ sách cùng bạn đọc!

1507 lượt xem
Tiếp cận truyện kiều từ góc nhìn văn hóa
PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn
Nguyễn Du (3/1/1765 - 16/9/1820) thuộc một trong số những người hiếm hoi mà dân tộc ta nói riêng, nhân loại nói chung đã may mắn sinh ra để vừa tôn vinh cho dân tộc vừa làm đẹp cho nhân loại. So với những thiên tài khác cùng thời như Goethe (1749 - 1832), hay trước đó một chút như Voltaire (1694 - 1778), thì số lượng tác phẩm mà Nguyễn Du để lại không nhiều. Song chỉ với Truyện Kiều, từ một cốt truyện vay mượn, bằng sáng tạo thiên tài của mình, Nguyễn Du đã xếp mình vào hàng ngũ các danh nhân thế giới, đã đưa văn học Việt Nam nói riêng, văn hoá Việt Nam nói chung vào kho tàng vô giá về văn hoá, văn học của nhân loại. Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở câu chuyện về một con người, một cuộc đời một số phận mà nó trải rộng ra với một tấm lòng, một cốt cách, một tinh thần Việt Nam. Truyện Kiều tạo ra cách nhìn dân tộc, làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam, làm say đắm lòng người độc giả mỗi thời đại. Mỗi một tác phẩm lớn của nhân loại đều là kết tinh không chỉ của một thời, không chỉ cho một thời mà kết tinh cho mãi mãi, mỗi thời đại sẽ đến với nó, sẽ rút ra từ nó những bài học nhân sinh bổ ích cho thời đại mình, tạo nên sự cộng hưởng thẩm mỹ nối liền quá khứ với hiện tại để từ đó con người tiếp bước tới tương lai. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là một cửa mở để đi vào khai thác các giá trị tinh thần mà tác phẩm bất hủ này của thiên tài Nguyễn Du tạo ra. Trước hết, chúng tôi xác lập góc nhìn văn hoá mà theo đó tác phẩm văn học là một trong những kết tinh cao nhất của văn hoá một dân tộc. Chúng tôi xác lập các mô hình thế giới được tạo ra trong tác phẩm để từ đó làm nổi bật thân phận và diện mạo của nhân vật Thuý Kiều. Từ đó chúng tôi điểm lại những thăng trầm chìm nổi của nhân vật trong bể trầm luân suốt mười lăm năm. Rồi từ đó chúng tôi đưa ra nhận xét về một tấm lòng nhân hậu mang vẻ đẹp vị tha, thuần Việt xuyên suốt chiều dài tác phẩm. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là một vấn đề lớn, hàm chứa nhiều khó khăn, không dễ giải quyết trọn vẹn ngay một lúc, một thời. Công trình của chúng tôi cũng chỉ dừng ở mức độ khởi đầu với những thu hoạch qua sự cảm nhận bước đầu về tác phẩm nổi tiếng này. Bảo vệ văn hoá dân tộc trong quá trình hoà nhập là việc làm không đơn giản, muốn vậy, trước hết, phải không ngừng nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ và hiểu biết cho con người về di sản văn hoá của cha ông và của nhân loại. Từ đó, dẫn tới việc tăng cường dân khí, tạo ra bản lĩnh và niềm tin dân tộc. Nâng cao dân trí và tăng cường dân khí cũng chính là góp phần đắc lực bảo vệ dân tuý, giữ gìn bản sắc dân tộc. Tìm hiểu nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá cũng không ngoài những nhiệm vụ trên. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là tấm lòng chân thành tưởng nhớ một thi hào lớn của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng tôi chân thành cảm ơn nhà Văn hoá học - Ngôn ngữ học, GS. Phan Ngọc đã đọc và góp ý cho bản thảo này. Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn GS.TSKH. Bùi Văn Ba; GS.TS. Trần Đình Sử; PGS.TS. Nguyễn Thái Hoà, PGS. Đặng Đức Siêu đã đọc bản thảo và góp cho chúng tôi nhiều ý kiến bổ ích. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã tận tình giúp đỡ để cuốn sách lại sớm được ra mắt độc giả. Công trình của chúng tôi khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Mọi sự góp ý đối với chúng tôi là vô cùng quý giá, không phải chỉ để nhằm hoàn thiện công trình mà để chúng ta có cùng cách hiểu, hiểu đúng hơn, đầy đủ hơn về một di sản lớn lao của văn hoá dân tộc, về một thiên tài sáng tạo của dân tộc.
1472 lượt xem