Văn học - Nghệ thuật
Biên niên sử phong trào thơ mới Hà Nội (1932-1945) - tập 2
Nguyễn Hữu Sơn

Cuốn sách sưu tầm, tổng hợp, thống kê các nguồn tài liệu trên sách báo, ấn phẩm xuất bản trước năm 1945 nhằm đưa đến một cái nhìn hệ thống, toàn cảnh về tất cả các vấn đề, sự kiện, hiện tượng liên quan đến phong trào Thơ mới Hà Nội. Với định hướng đó, đúng như tên gọi, cuốn sách lựa chọn cách trình bày tư liệu theo thể thức biên niên với 14 mục tương ứng với 14 năm - quãng thời gian Thơ mới xuất hiện và thoái trào, từ 1932 đến 1945. Trong mỗi năm, sự kiện sẽ được sắp xếp, trình bày theo cấp độ từng tháng, từng ngày theo đúng trật tự xuất hiện là thời điểm được xuất bản trên các ấn phẩm.

1260 lượt xem
Việt Nam - 9 bản hùng văn
Hà Duy Biển
Lịch sử hào hùng hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra biết bao những áng văn thơ trác tuyệt. Có những bản anh hùng ca ngất ngây men chiến thắng, có những khúc bi - tráng ca thấu động tâm can… Những áng văn đó, tự bản thân tồn tại, đã trở thành một phần lịch sử, một phần văn hóa Việt Nam. Trong số đó, có những tác phẩm không chỉ mang giá trị văn học mà còn mang cả tầm vóc của lịch sử. Việt Nam – 9 bản Hùng văn là công trình được tuyển chọn từ kho tàng văn hóa – lịch sử nước nhà giới thiệu về 9 tác phẩm văn học mang tầm vóc lịch sử. Chín áng văn này được gọi là “hùng văn” với ý nghĩa hào tráng của bản thân tác phẩm, trong bối cảnh lịch sử - văn hóa tạo tác nên chúng và chính những tác động, dấu ấn mà các áng văn đó để lại trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, đó là : - Nam quốc sơn hà viết khoảng thế kỷ X - XI - Phạt Tống lộ bố văn (tức Bài văn tuyên bố về việc đánh Tống) của Lý Thường Kiệt, viết năm 1075 - 1076 - Dụ chư tỳ tướng hịch văn (tức Hịch tướng sĩ) của Trần Quốc Tuấn, viết năm 1285 - Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, viết năm 1427 - Thư chiêu dụ các tướng sĩ Mạc của Lê Bá Ly, viết năm 1551 - Xuất sư hịch (tức Hịch ra quân) của Nguyễn Hữu Chỉnh, viết năm 1786 - Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) của Nguyễn Đình Chiểu, viết năm 1861 - Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, viết năm 1945 - Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, viết năm 1946. Như một tuyển tập, 9 áng văn này bao gồm nhiều thể loại văn học và phương tiện ngôn ngữ trao chuyển giá trị lịch sử - văn hóa Việt Nam trải dài từ buổi đầu độc lập tự chủ (thế kỷ X - XI) đến thế kỷ XX. Do sự phức tạp, đa chiều của lịch sử - văn hóa Việt Nam, các tác giả chủ trương phục dựng lịch sử văn bản từng tác phẩm ở những mức độ khác nhau, mỗi tác phẩm được trình bày thành một chỉnh thể, gồm ba bộ phận: Bối cảnh lịch sử; tác giả và tác phẩm; Văn bản tác phẩm.
1192 lượt xem
Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam
Trần Ngọc Vương
Cho đến nay, giới nghiên cứu văn học vẫn còn đứng trước những lời thách đố nghiệt ngã về quyền được tồn tại của công việc mình làm với tư cách là một chuyên ngành khoa học thực thụ về văn học. Và ai cũng biết, các khoa học về nghệ thuật nói chung, hẳn còn gặp thiên nan vạn nan. Yêu cầu khách quan của bất cứ một bộ môn khoa học nào vẫn là việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự tồn tại và vận động của đối tượng được nghiên cứu. Đối diện với yêu cầu đó, các ngành khoa học khác nhau đạt được những thành tựu hoàn toàn không giống nhau. Thật vô nghĩa việc quy lỗi cho ai đó về sự bất cập của toàn bộ những kết quả đã đạt được của một chuyên ngành khoa học. Dù sao, thì khát vọng đạt tới trình độ khoa học của công việc nghiên cứu văn học vẫn được biện minh bởi chính tiền đề xuất phát: với tư cách là một sản phẩm lịch sử của nhận thức, tư duy và cảm thụ của con người, văn học có đủ điều kiện trở thành đối tượng của một bộ môn khoa học lịch sử. Từ cuối thế kỷ XVII, với những kiến giải và dự báo của Gớt, những yếu tố đầu tiên của một định hướng nghiên cứu về một nền văn học toàn thế giới đã ra đời. Từ đó đến nay, rất nhiều nhà bác học lớn đã dành tâm huyết và trí lực cho một khoa học về văn học. Trong vài thập kỷ gần đây, những cố gắng tìm kiếm các phương pháp tiếp cận đối tượng như cách khách quan hơn và khoa học hơn đã làm xuất hiện và phát triển một số định hướng mới trong khoa nghiên cứu văn học: loại hình học, thi pháp học và văn học so sánh. Trong từng định hướng như vậy, đã khẳng định được nhiều thành tựu, nhiều công trình có giá trị cổ điển.
1358 lượt xem
Biên niên sử phong trào thơ mới Hà Nội (1932-1945) - tập 1
Nguyễn Hữu Sơn

Cuốn sách sưu tầm, tổng hợp, thống kê các nguồn tài liệu trên sách báo, ấn phẩm xuất bản trước năm 1945 nhằm đưa đến một cái nhìn hệ thống, toàn cảnh về tất cả các vấn đề, sự kiện, hiện tượng liên quan đến phong trào Thơ mới Hà Nội. Với định hướng đó, đúng như tên gọi, cuốn sách lựa chọn cách trình bày tư liệu theo thể thức biên niên với 14 mục tương ứng với 14 năm - quãng thời gian Thơ mới xuất hiện và thoái trào, từ 1932 đến 1945. Trong mỗi năm, sự kiện sẽ được sắp xếp, trình bày theo cấp độ từng tháng, từng ngày theo đúng trật tự xuất hiện là thời điểm được xuất bản trên các ấn phẩm.

1621 lượt xem
Văn học Việt Nam (1930-1945) - Quyển 1
GS. Hà Minh Đức (Chủ biên)

Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại. Quá trình hiện đại hóa diễn ra với nhiều cấp độ và
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu đứng về góc độ phân kỳ văn học mà xét thì mốc lớn 1945 chấm dứt gần một trăm năm nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp, khai sinh ra nhà nước dân chủ cộng hòa do nhân dân làm chủ được xem là chuyển động lịch sử lớn nhất của thế kỷ và cũng là của mọi hoạt động sáng tạo tinh thần trong đó có văn học. Từ 1945 cho đến hết thế kỷ XX, hơn nửa thế kỷ có hai giai đoạn lớn: thời kỳ 1945-1975 diễn ra hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp và chống Mỹ xâm lược. Từ 1975 cho đến năm 2000 là thời kỳ đổi mới của đất nước và cũng là của văn chương bao gồm hai giai đoạn nhỏ: tiền đổi mới 1975-1986 và đổi mới toàn diện 1986-2000. Trở lại với gần nửa thế kỷ đầu của văn học cũng có thể chia thành hai giai đoạn 1900-1930 và 1930-1945. Ba mươi năm đầu thế kỷ là thời kỳ hệ tư tưởng phong kiến suy thoái và được thay thế bằng những tư tưởng dân chủ tiến bộ. Ảnh hưởng của phương Tây, nhất là những tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp về bình đẳng, bác ái, tự do đã tác động đến tầng lớp tri thức và văn nghệ sĩ. Văn học Pháp ảnh hưởng trực tiếp đến văn học Việt Nam và góp phần hình thành nhiều thể loại và tạo thêm nhiều cái mới cho văn học.

4957 lượt xem
Hạnh phúc vẫn đủ chỗ cho ta
Blog Radio
Cuốn sách này là những câu chuyện hết sức giản dị, gần gũi, chân thành, cũng không kém phần lắng đọng, sâu sắc về hạnh phúc và con đường mỗi người viết đã trải qua để tìm kiếm hạnh phúc của mình. Những trang viết này chứa đựng đầy đủ những cung bậc cảm xúc mà cuộc sống trao cho mỗi chúng ta để sau tất cả ta biết rằng hạnh phúc là một hành trình và cũng là phần thưởng tuyệt vời nhất cuộc sống ban tặng cho chúng ta như khi tưởng rằng cuộc sống đã đóng chặt cánh cửa trước mắt khi mãi mãi lấy đi người ta thương yêu nhất – như khi tình cảm thiêng liêng nhất của ta bị phản bội – như khi những lỗi lầm của ta tưởng chừng sẽ không bao giờ được tha thứ và cơ hội trở về bên gia đình sẽ mãi mãi đóng lại…
919 lượt xem
Văn học Việt Nam (1900-1930)
GS. Phong Lê (Chủ biên)

Tập này trình bày lịch sử văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930. Đây là thời kỳ xã hội Việt Nam, sau khi thực dân Pháp dẹp xong phong trào Cần vương, đã chuyển sang chế độ bán phong kiến thuộc địa. Trong bối cảnh mới của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội là sự hình thành một nền văn học mới, trong chuyển động gấp rút từ trung đại sang hiện đại.
Cuốn sách được viết bởi các tác giả: GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Nguyễn Đình Chú, PGS. Nguyễn Văn Hoàn, GS. Phong Lê, PGS.TS. Trần Nho Thìn, PGS.TS. Phan Trọng Thưởng, PGS.TS. Trần Ngọc Vương. GS. Phong Lê chịu trách nhiệm Chủ biên. PGS.TS. Lưu Khánh Thơ phụ trách Thư ký công trình. Cấu trúc tập sách gồm 2 Phần, 18 Chương (không kể Chương Mở đầu và Kết luận), với quy ước về số trang - do Chủ biên khởi thảo và đã được các tác giả đồng thuận. Nhưng do nhiều người viết, và mỗi tác giả chịu trách nhiệm chính về phần viết của mình ở tư cách chuyên gia, nên một sự nhất trí về quan niệm và ý tưởng chung cho toàn bộ chỉ là tương đối (thậm chí có thể có sự khác nhau trong quan niệm, cách hiểu và sự đánh giá về một số hiện tượng nào đó); và sự chặt chẽ về cấu trúc và nội dung là khó thực hiện được như yêu cầu của công trình, và mong muốn của các tác giả

2373 lượt xem
Nước non vạn dặm - Lênh đênh bốn biển - Tập 1
Nguyễn Thế Kỷ

Tập I- Nợ nước non là tập vô cùng quan trọng hay có thể nói là tập quan trọng nhất của bộ tiểu thuyết này. Đấy là chặng đường quan trọng nhất để hình thành một con người, đặc biệt là một vĩ nhân với những yếu tố vô cùng quan trọng: gia đình, hoàn cảnh lịch sử đất nước, thế giới, điều kiện sống, giáo dục, tư chất, những vẻ đẹp tâm hồn, sự quan sát đời sống, chặng đường nhận thức của nhân vật...Đây cũng là tập mà nếu nhà văn không thuyết phục được bạn đọc, không tạo ra sự đợi chờ của bạn đọc cho những tập tiếp theo thì nghĩa là bộ tiểu thuyết đã kết thúc với bạn đọc cho dù nhà văn đang tiếp tục viết. Và tôi, một bạn đọc đầy cảm hứng để đọc bộ tiếu thuyết này với nhiều lo lắng cho chính tác giả. Nhưng giờ đây, tôi đã đọc xong Nợ nước non và bắt đầu đợi những tập tiếp theo.

4373 lượt xem
Định vị văn chương Việt
GS. Phong Lê
Tác giả Phong Lê là một nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, có thể nói ông là một chuyên gia hàng đầu bền bỉ nghiên cứu sâu về văn học Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Thành tựu nghiên cứu của ông không chỉ là hàng trăm bài phê bình trên các báo, tạp chí chuyên ngành mà còn là hơn 20 tác phẩm có giá trị nghiên cứu về văn học, mà “Định vị văn chương Việt” là một trong những tác phẩm như vậy. Định vị - là một thao tác cần thiết cho việc phân tích, bình giá một tác phẩm, tác giả, một trào lưu, một trường phái, một giai đoạn, trong và cho cả một nền văn học. Theo Phong Lê, định vị nền văn học Việt Nam từ trong chiều dọc và chiều sâu lịch sử, đó là sự định vị giá trị của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn trong xen cài và gắn bó với nhau qua những đỉnh cao như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu Phong Lê, trước năm 1945 xuất hiện ba trào lưu văn học: đó là trào lưu văn học cách mạng, trào lưu văn học hiện thực và trào lưu văn học lãng mạn. Thành tựu lớn của văn chương Việt được kết tinh qua rất nhiều chân dung tiêu biểu, trong đó ở vị trí đỉnh cao tương ứng với ba dòng văn học là Hồ Chí Minh, Nam Cao và Nguyễn Tuân... Theo Phong Lê, để định vị văn học hiện đại theo chiều đồng đại cần tìm đến yêu cầu hiện đại hóa đặt ra chung cho khu vực phương Đông; và ở đây cần một so sánh Việt Nam với các nước thuộc khu vực Đông Á là nơi những nước “đồng văn” tuy có cùng khởi điểm nhưng lại đi theo những con đường khác nhau để có gương mặt riêng trong thế kỷ XX. Với Việt Nam, thế kỷ XX - đó là con đường đi tới Cách mạng tháng Tám - 1945; để từ đây văn học Việt Nam hướng theo con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hơn 30 năm chiến tranh. Nếu như cuộc cách mạng văn hóa trong những năm này là lấy trọng tâm là dân tộc hóa và đại chúng hóa, thì từ thập niên 90, văn hóa đã đóng vai trò là mục tiêu và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của đời sống dân tộc; và do vậy việc định vị vai trò của văn học trong bối cảnh văn hóa cần thực hiện trên hai phương diện: chọn lọc và phát huy giá trị truyền thống cùng với tiếp cận và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nước ngoài. Dưới cây bút Phong Lê, những định vị giữa các khu vực, các bộ phận trong văn học, văn hóa dân tộc trên hành trình một thế kỷ XX, với gương mặt hiện đại của nó, qua một cái nhìn bên trong – là những nét chính được thể hiện trong Định vị Văn chương Việt của ông.
1189 lượt xem
Văn học dân gian - Quyển 1
GS. TS. Nguyễn Xuân Kính, PGS. TS. Nguyễn Thị Huế

Bộ Lịch sử văn học Việt Nam được biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về văn học Việt Nam của đông đảo bạn đọc và các nhà chuyên môn. Tổng Chủ biên là Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hà Minh Đức, cùng với sự tham gia cộng tác của rất nhiều nhà khoa học trong giới văn học ở các viện nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học trong cả nước.
Dựa trên kết quả phân kỳ lịch sử văn học, bộ Lịch sử văn học Việt Nam dự kiến gồm 10 tập. Tùy dung lượng, có tập sẽ chia thành nhiều quyển. Với mục tiêu tổng kết thực tiễn lịch sử văn học Việt Nam, bộ sách là công trình khoa học có chất lượng, có tính hệ thống và quan điểm khoa học hiện đại, góp phần khẳng định vị thế, vai trò của văn học Việt Nam với tư cách một lĩnh vực khoa học chuyên ngành và trong tương quan liên ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung.
Trong đó tập trung nhận thức, đánh giá và định giá các hiện tượng văn học, các giai đoạn văn học một cách khách quan, thỏa đáng đặt trong bối cảnh dân tộc, khu vực và quốc tế. Công trình là bức tranh đa dạng và phong phú với những đường nét riêng chung, mang tính tổng kết mười thế kỷ văn học với giá trị khoa học và thực tiễn lớn, hỗ trợ cho việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc ở các viện nghiên cứu và cho việc giảng dạy văn học sử Việt Nam ở các trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, các trường đại học sư phạm và trung học, đồng thời đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của đông đảo bạn đọc.
Bộ Lịch sử văn học Việt Nam lần này được sắp xếp theo các thời kỳ lịch sử của văn học, từ văn học dân gian đến văn học thành văn ở các giai đoạn thuộc thời kỳ trung đại, cận đại, hiện đại với những đỉnh cao của các phong cách sáng tạo. Sách có cấu trúc như sau:
Tập I: Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học dân gian
Tập II: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - hết thế kỷ XIV)
Tập III: Lịch sử văn học Việt Nam (thế kỷ XV)
Tập IV: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVI - thế kỷ XVII)
Tập V: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVIII - nửa đầu thế
kỷ XIX)
Tập VI: Lịch sử văn học Việt Nam (nửa sau thế kỷ XIX)
Tập VII: Lịch sử văn học Việt Nam (1900-1930)
Tập VIII: Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945)
Tập IX: Lịch sử văn học Việt Nam (1945-1975)
Tập X: Lịch sử văn học Việt Nam (1976-2000)
Mỗi một tập trong bộ Lịch sử văn học Việt Nam có một hoặc đồng tác giả chủ biên, được biên soạn theo phương châm cập nhật, chất lượng và cố gắng bám sát tiến trình các giai đoạn phát triển của Lịch sử văn học Việt Nam. Mỗi tập do một tập thể biên soạn là các nhà nghiên cứu có uy tín trong giới văn học trong nước cũng như trên trường quốc tế.

4104 lượt xem
Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
TS. Đinh Lựu
Vũ Trọng Phụng (20/10/1912 - 18/10/1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút không lâu, song khối lượng tác phẩm Vũ Trọng Phụng để lại khá lớn, có giá trị: hơn 30 truyện ngắn, 9 cuốn tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch... cùng rất nhiều những bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí đương thời. Tác phẩm của ông là tấm gương phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống. Nó có giá trị như một nhân chứng, vật chứng của thời đại, là bản cáo trạng đối với chế độ thực dân nửa phong kiến, là lời kêu gọi thống thiết phẩm giá, tự do, một cuộc sống xứng đáng không chỉ cho một thời mà cho mọi thời. Vũ Trọng Phụng có những đóng góp to lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam ở rất nhiều thể loại: phóng sự, truyện ngắn, kịch, phê bình... nhưng có thể nói, ở thể loại tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có những thành công nổi bật hơn cả. Những đóng góp của Vũ Trọng Phụng vào quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam vừa mang tính khai mở, vừa khẳng định tính hiện đại của thể loại này. Các công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói chung và nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nói riêng cho đến nay là tương đối nhiều. Song mỗi nhà nghiên cứu lại có cách đánh giá riêng, dưới những góc nhìn riêng. Với “Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng”, TS. Đinh Lựu đã cung cấp cho bạn đọc một bức tranh khá toàn diện về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng: tác giả đã đi từ bối cảnh ra đời của văn chương Vũ Trọng Phụng đến những tư tưởng, quan niệm, mô hình tiểu thuyết của nhà văn. Từ cái nền chung đó, tác giả đi sâu phân tích những phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng như: cách xây dựng cốt truyện, tình tiết, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ... Và để chứng minh cho mỗi luận điểm của mình tác giả đều có những dẫn chứng rất cụ thể, sinh động. Cuốn sách gồm 4 chương: Chương I: Vũ Trọng Phụng, nhà tiểu thuyết. Tư tưởng nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, mô hình tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương II: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình tiết trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương III: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương IV: Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra, còn có phụ lục để bạn đọc tham khảo thêm về cách sử dụng điệp ngữ - một biện pháp tu từ đặc sắc trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện của tác giả về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Đúng như các nhà khoa học đã khẳng định: “Tác giả đã miêu tả được một cách sinh động bức tranh tổng thể các phương diện căn bản của nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Trong quá trình miêu tả ấy, tác giả đã dừng lại phân tích kỹ lưỡng, tỉ mỉ từng phương diện, từng yếu tố cấu thành gương mặt phong phú, đa diện và đa dạng của nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng”.
1602 lượt xem
Diện mạo văn học cận hiện đại Lào - Tập 1
Nguyễn Đức Ninh

Bộ sách chia làm 2 tập: Tập 1: Diện mạo văn học cận hiện đại Lào (GS,TS Nguyễn Đức Ninh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á-Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam viết). Tập 2: Nhận diện văn xuôi Lào hiện đại - quá trình hình thành và đặc điểm phát triển của thể loại (GVC Trần Thúc Việt - Khoa Văn học - Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội viết). Ngoài ra, trong mỗi tập sách cũng được các tác giả tuyển chọn, giới thiệu một số tác phẩm thơ ca, truyện ký, tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học cận hiện đại Lào. Hy vọng, đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với bạn đọc trong và ngoài nước cũng như các bậc đào tạo nghiên cứu của Việt Nam về một thời đại văn học mới ở Lào. Trân trọng giới thiệu Bộ sách cùng bạn đọc!

1549 lượt xem
Diện mạo văn học cận hiện đại Lào - Tập 2
Trần Thúc Việt

Bộ sách chia làm 2 tập: Tập 1: Diện mạo văn học cận hiện đại Lào (GS,TS Nguyễn Đức Ninh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á-Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam viết). Tập 2: Nhận diện văn xuôi Lào hiện đại - quá trình hình thành và đặc điểm phát triển của thể loại (GVC Trần Thúc Việt - Khoa Văn học - Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội viết). Ngoài ra, trong mỗi tập sách cũng được các tác giả tuyển chọn, giới thiệu một số tác phẩm thơ ca, truyện ký, tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học cận hiện đại Lào. Hy vọng, đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với bạn đọc trong và ngoài nước cũng như các bậc đào tạo nghiên cứu của Việt Nam về một thời đại văn học mới ở Lào. Trân trọng giới thiệu Bộ sách cùng bạn đọc!

2011 lượt xem
Truyện ngắn Lào đương đại (Tái bản lần thứ 1)
Hồng Toàn, Vănmay Xuckoongmy
Truyện ngắn Lào đương đại kể lại những truyện để bạn đọc hình dung ra thiên nhiên và con người Lào. Họ hiền lành, mộc mạc và đáng yêu biết bao, và chắc chắn truyện của họ cũng phản ánh được cuộc sống và tính cách ấy. Trong 5 năm ở Lào, tác giả có may mắn là đã đi tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa tại các địa phương, ngoài thủ đô Viêng Chăn. Vì thế đến được hết các tỉnh và nhiều huyện, các vùng nông thôn của nước Lào. Phía bắc thì qua Luông Pha Bang, U Đôm Xay, Luông Nặm Thà, Bò Kẹo, qua phà Huổi Xay trên sông Mê Kông sang Xiêng Không, Xiêng May (Thái Lan). Hoặc xuống Xay Nhabuli, hoặc ngược U Đôm Xay lên Phong Sa Lỳ, về Hủa Phăn, Sầm Nưa, xuống Xiêng Khoảng để đến cánh đồng Chum bí ẩn mênh mang. Phía nam theo đường quốc lộ Mười Ba qua các tỉnh Trung Lào, qua bến phà Thà Khẹt, nơi ghi dấu ngày đẫm máu năm 1944, đến các vùng lăm vông nổi tiếng Sa La Văn, Sê Kông, At Ta Pư, Chăm Pa Sắc, đến tận Chùa Vát phu cổ kính, thác Pa Pêng nằm giữa sông Mê Kông hùng vĩ, ngã ba của ba nước Lào, Thái Lan và Cam-pu-chia. Mọi người đến Lào đều có chung một cảm nhận là phong cảnh đất nước này đẹp, không khí trong lành, xã hội thanh bình, nhẹ nhàng, cuộc sống ở đây thanh thản, chậm rãi... Không gian hiền hòa và tĩnh lặng, mật độ dân số thưa thớt, tốc độ đô thị hóa chậm, tài nguyên thiên nhiên còn nguyên vẹn, nhu cầu cuộc sống giản dị, bình yên... Hiện thực ấy cùng với các triết lý của Phật giáo ngấm sâu vào lối sống từ hàng ngàn đời đã tạo nên một lối sống dân tộc: lối sống thanh nhàn, giản dị và trong sáng. Người ngoài không hiểu, cứ nghĩ là một lối sống nhàn tản, chậm chạp. Triết lý ấy, phong cách ấy làm cho cuộc sống thanh thản, ít bon chen, chân thành và chân chất. Người Lào hiền lành từ những điều ấy.
1138 lượt xem
Ai đem giăng sáng giãi trên đồi chè (Demo)
Nhiều tác giả

Tuyển chọn những tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí đặc sắc về mảnh đất, con người và văn hoá trà Thái Nguyên

609 lượt xem
Nghệ thuật học
Lưỡng quốc Tiến sĩ Đỗ Văn Khang
Cuốn Nghệ thuật học lần này là sự tái tạo và nâng cao của những thành tựu mà tác giả Lưỡng Quốc Tiến sĩ Khoa học Đỗ Văn Khang và các cộng sự mới hoàn thành. Nếu bản chất con người là luôn sáng tạo theo quy luật cái đẹp (C. Mác), thì Nghệ thuật học là khoa học nghiên cứu quá trình bộc lộ bản chất Người ở trình độ cao trong thành tựu sáng tạo Văn hóa - Thẩm mĩ. Nghệ thuật học lấy cái đẹp làm phạm trù cơ bản và trung tâm, hình tượng là tiếng nói đặc trưng, và lý tưởng thẩm mĩ làm cơ sở để xem xét quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nghệ thuật. Từ đó nghệ thuật học có các nhiệm vụ chính sau đây: 1) Toàn bộ sự phát triển của tác giả, tác phẩm, các thời đại nghệ thuật đều được xem xét, đánh giá trên cơ sở nó đã khám phá, sáng tạo cái đẹp, đã biểu hiện lí tưởng thẩm mĩ, đã phát hiện nhân vật thời đại như thế nào. 2) Là một khoa học đi sâu vào quy luật hình thành, phát triển và chỉ ra quá trình tạo phong cách nghệ thuật thời đại, Nghệ thuật học không thể đi quá chi tiết vào thành tựu nghệ thuật của các thời đại nghệ thuật. Nó chỉ có thể chọn lọc các “chất liệu” cần thiết, tiêu biểu và điển hình để rút ra những đường nét lớn của quy luật mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, qua đó cung cấp cho sinh viên và bạn đọc yêu nghệ thuật cơ sở cần thiết nhất để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong thưởng thức và đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật. Tính thời đại của cuốn sách là ở chỗ, ngày nay thế giới dùng hai chỉ số để đánh giá con người đó là: IQ và EQ. IQ: Chỉ số thông minh (Intelligence quotient) EQ: Chỉ số nhạy cảm (Emotion quotient) Nếu con người chỉ thông minh thôi thì khả năng ứng phó và khả năng sáng tạo chưa thật cao. Một con người vừa thông minh lại vừa nhạy cảm thì khả năng bắt nhanh cái mới, sáng tạo cái mới sẽ cao hơn rất nhiều. Nghệ thuật học nhằm vào bồi dưỡng trình độ nhạy cảm cho con người. Cuốn sách này được hoàn thành với sự cộng tác của GS. Nguyễn Trân (viết mục 4 và mục 5 của chương 3), ThS. Đỗ Thị Minh Thảo (viết chương 4 và mục 8 chương 7), Nguyễn Ngọc Ánh (viết chương 5). Toàn bộ những phần còn lại là do Lưỡng Quốc Tiến sĩ khoa học Đỗ Văn Khang viết.
1321 lượt xem