Văn học - Nghệ thuật
Kiến trúc Thăng Long - Hà Nội
Lê Văn Lân

Tiếp cận cuốn sách bạn đọc có những hình dung về bức tranh kiến trúc Thăng Long - Hà Nội, hiểu được quá trình hình thành diện mạo kiến trúc Thăng Long từ những tụ cư bên sông Hồng tới Đại La, định đô Thăng Long và diện mạo ban đầu, Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ, Thăng Long thời Lê - Mạc - Tây Sơn, Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn; những xây dựng đầu tiên của Pháp ở Hà Nội, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, cấu trúc không gian đô thị thời Pháp thuộc. Bên cạnh đó là diện mạo kiến trúc Hà Nội từ hoà bình trở lại đến những năm đổi mới, những hình ảnh quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội năm 2011 và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Vùng Thủ đô; kiến trúc Hà Nội thời kỳ mới hội nhập, thời kỳ của kỹ thuật công nghệ mới và biến động của kinh tế - xã hội, kiến trúc Hà Nội nhìn về phía trước.

1816 lượt xem
Những bước tiến trong tiến trình văn học để khẳng định độc lập dân tộc của Lào và Việt Nam
Tạ Hồng Hạnh, Đặng Quang Phúc, TS Nguyễn Phương Liên

Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, có quan hệ gắn kết keo sơn trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển. Trong hơn bảy thập niên qua, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo sau này của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân dày công vun đắp, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc. Nhân kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2017) và 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (05/9/1962 - 05/9/2017)Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với các chuyên gia tổ chức biên soạn, xuất bản bộ sách về mối quan hệ gắn bó giữa Việt Nam - Lào Bộ sách gồm 11 cuốn giới thiệu những thông tin cơ bản về đất nước và con người Lào, về những đặc trưng của đất nước Triệu Voi thông qua các lĩnh vực lịch sử - quân sự, chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội,... cùng song hành trong thế tương quan so sánh với những đặc trưng về đất nước và con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ sách còn đi sâu phân tích mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và những triển vọng kết nối trên tất cả lĩnh vực. Qua đó giúp cho việc triển khai hiệu quả kế hoạch hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới và cũng là nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung, đặc biệt là với đất nước Lào; nhằm không ngừng củng cố, tăng cường và phát triển hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Lào, đúng như mong muốn và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt - Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.

1456 lượt xem
Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng
TS. Đinh Lựu
Vũ Trọng Phụng (20/10/1912 - 18/10/1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút không lâu, song khối lượng tác phẩm Vũ Trọng Phụng để lại khá lớn, có giá trị: hơn 30 truyện ngắn, 9 cuốn tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch... cùng rất nhiều những bài báo, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí đương thời. Tác phẩm của ông là tấm gương phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống. Nó có giá trị như một nhân chứng, vật chứng của thời đại, là bản cáo trạng đối với chế độ thực dân nửa phong kiến, là lời kêu gọi thống thiết phẩm giá, tự do, một cuộc sống xứng đáng không chỉ cho một thời mà cho mọi thời. Vũ Trọng Phụng có những đóng góp to lớn cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam ở rất nhiều thể loại: phóng sự, truyện ngắn, kịch, phê bình... nhưng có thể nói, ở thể loại tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng có những thành công nổi bật hơn cả. Những đóng góp của Vũ Trọng Phụng vào quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam vừa mang tính khai mở, vừa khẳng định tính hiện đại của thể loại này. Các công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng nói chung và nghiên cứu về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nói riêng cho đến nay là tương đối nhiều. Song mỗi nhà nghiên cứu lại có cách đánh giá riêng, dưới những góc nhìn riêng. Với “Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng”, TS. Đinh Lựu đã cung cấp cho bạn đọc một bức tranh khá toàn diện về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng: tác giả đã đi từ bối cảnh ra đời của văn chương Vũ Trọng Phụng đến những tư tưởng, quan niệm, mô hình tiểu thuyết của nhà văn. Từ cái nền chung đó, tác giả đi sâu phân tích những phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng như: cách xây dựng cốt truyện, tình tiết, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ... Và để chứng minh cho mỗi luận điểm của mình tác giả đều có những dẫn chứng rất cụ thể, sinh động. Cuốn sách gồm 4 chương: Chương I: Vũ Trọng Phụng, nhà tiểu thuyết. Tư tưởng nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, mô hình tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương II: Nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình tiết trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương III: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng; Chương IV: Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra, còn có phụ lục để bạn đọc tham khảo thêm về cách sử dụng điệp ngữ - một biện pháp tu từ đặc sắc trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Cuốn sách là một công trình nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện của tác giả về nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Đúng như các nhà khoa học đã khẳng định: “Tác giả đã miêu tả được một cách sinh động bức tranh tổng thể các phương diện căn bản của nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Trong quá trình miêu tả ấy, tác giả đã dừng lại phân tích kỹ lưỡng, tỉ mỉ từng phương diện, từng yếu tố cấu thành gương mặt phong phú, đa diện và đa dạng của nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng”.
1372 lượt xem
Biên niên sử phong trào thơ mới Hà Nội (1932-1945) - tập 1
Nguyễn Hữu Sơn

Cuốn sách sưu tầm, tổng hợp, thống kê các nguồn tài liệu trên sách báo, ấn phẩm xuất bản trước năm 1945 nhằm đưa đến một cái nhìn hệ thống, toàn cảnh về tất cả các vấn đề, sự kiện, hiện tượng liên quan đến phong trào Thơ mới Hà Nội. Với định hướng đó, đúng như tên gọi, cuốn sách lựa chọn cách trình bày tư liệu theo thể thức biên niên với 14 mục tương ứng với 14 năm - quãng thời gian Thơ mới xuất hiện và thoái trào, từ 1932 đến 1945. Trong mỗi năm, sự kiện sẽ được sắp xếp, trình bày theo cấp độ từng tháng, từng ngày theo đúng trật tự xuất hiện là thời điểm được xuất bản trên các ấn phẩm.

1389 lượt xem
Nghệ thuật học
Lưỡng quốc Tiến sĩ Đỗ Văn Khang
Cuốn Nghệ thuật học lần này là sự tái tạo và nâng cao của những thành tựu mà tác giả Lưỡng Quốc Tiến sĩ Khoa học Đỗ Văn Khang và các cộng sự mới hoàn thành. Nếu bản chất con người là luôn sáng tạo theo quy luật cái đẹp (C. Mác), thì Nghệ thuật học là khoa học nghiên cứu quá trình bộc lộ bản chất Người ở trình độ cao trong thành tựu sáng tạo Văn hóa - Thẩm mĩ. Nghệ thuật học lấy cái đẹp làm phạm trù cơ bản và trung tâm, hình tượng là tiếng nói đặc trưng, và lý tưởng thẩm mĩ làm cơ sở để xem xét quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của nghệ thuật. Từ đó nghệ thuật học có các nhiệm vụ chính sau đây: 1) Toàn bộ sự phát triển của tác giả, tác phẩm, các thời đại nghệ thuật đều được xem xét, đánh giá trên cơ sở nó đã khám phá, sáng tạo cái đẹp, đã biểu hiện lí tưởng thẩm mĩ, đã phát hiện nhân vật thời đại như thế nào. 2) Là một khoa học đi sâu vào quy luật hình thành, phát triển và chỉ ra quá trình tạo phong cách nghệ thuật thời đại, Nghệ thuật học không thể đi quá chi tiết vào thành tựu nghệ thuật của các thời đại nghệ thuật. Nó chỉ có thể chọn lọc các “chất liệu” cần thiết, tiêu biểu và điển hình để rút ra những đường nét lớn của quy luật mà toàn bộ nghệ thuật chịu ảnh hưởng, qua đó cung cấp cho sinh viên và bạn đọc yêu nghệ thuật cơ sở cần thiết nhất để hiểu và vận dụng trong sáng tạo khoa học cũng như trong thưởng thức và đánh giá các tác giả, tác phẩm và thời đại nghệ thuật. Tính thời đại của cuốn sách là ở chỗ, ngày nay thế giới dùng hai chỉ số để đánh giá con người đó là: IQ và EQ. IQ: Chỉ số thông minh (Intelligence quotient) EQ: Chỉ số nhạy cảm (Emotion quotient) Nếu con người chỉ thông minh thôi thì khả năng ứng phó và khả năng sáng tạo chưa thật cao. Một con người vừa thông minh lại vừa nhạy cảm thì khả năng bắt nhanh cái mới, sáng tạo cái mới sẽ cao hơn rất nhiều. Nghệ thuật học nhằm vào bồi dưỡng trình độ nhạy cảm cho con người. Cuốn sách này được hoàn thành với sự cộng tác của GS. Nguyễn Trân (viết mục 4 và mục 5 của chương 3), ThS. Đỗ Thị Minh Thảo (viết chương 4 và mục 8 chương 7), Nguyễn Ngọc Ánh (viết chương 5). Toàn bộ những phần còn lại là do Lưỡng Quốc Tiến sĩ khoa học Đỗ Văn Khang viết.
907 lượt xem
Vivir Como EL
Phan Thị Quyên, Phạm Trung Tín, Trần Đình Vân
VIVIR COMO EL, tal como la bautizara el excepcional Primer Ministro de Vietnam, Pham Van Dong, es una cartilla revolucionaria, para su estudio e imitación por la juventud en cualquier parte del mundo. Se trata del espejo de una vida cuyo fin conmovió a la humanidad que se agita decidida a romper las amarras de un sistema decadente, cuyos estertores de muerte constituyen una seria amenaza para los pueblos a los que, de una forma u otra, oprimen cruelmente. Es la vida del héroe Nguyen Van Troi, joven obrero electricista pertenceciente a las fuerzas especiales llamadas Bietdong en las FAL Vietnam del Sur, contada por su esposa Phan thi Quyen y recogido por el escritor vietnamita Tran Dinh Van. La escuela revolucionaria de Van Troi es la existencia misma de las poderosas fuerzas populares de su patria; la constituyen los combatientes de los bosques, de los llanos, de las mesetas y de las ciudades del Sur de Vietnam; los hombres y las mujeres que en las cárceles de horror del imperialismo yanqui en Vietnam del Sur mantienen el espíritu combativo y la moral revolucionaria resplandeciente, al igual que los soldados de las FAL cuando rechazan a un enemigo que cuenta con las armas más modernas, con acorazados, aviones, tanques y todo tipo de máquinas automáticas, e incluso no tienen reparo en usar elementos prohibidos en la guerra moderna, como son los gases tóxicos y la “guerra” bacteriológica. El proceso Van Troi mantuvo en tensión a los pueblos revolucionarios del mundo, y los guerrilleros de las FALN de Venezuela desde el primer momento hicieron suyo al héroe vietnamita y capturaron al coronel Michael Smolen, subjefe de la Misión Aérea norteamericana en Venezuela y propusieron a los Estados Unidos su canje por Nguyen Van Troi. Este gesto magnífico llenó de esperanza a los revolucionarios del mundo; pero una vez más el imperialismo yanqui incumplió un compromiso y asesinó arteramente a Van Troi, cuando los venezolanos dejaron en libertad al yanqui Smolen según se había convenido. La obra ha sido traducida a muchos idiomas e impresa en distintos formatos según las posibilidades de quienes han propiciado su impresión. Esta edición de VIVIR COMO EL publicada en español está bajo los auspicios de la Editorial Inforfomación y Comunicaciones de Vietnam. Esperamos que los hispanohablantes y, sobre todo, los jóvenes de América Latina y el Caribe tengan acceso a esta fuente directa y viva de patriotismo frente a las elucubraciones y actos hipócritas y crueles del imperialismo yanqui y que se conviertan, por firme decisión de la Historia en definitiva - para gloria de los revolucionarios - en bandera de lucha por la solidaridad, hermandad y cooperación entre todos los pueblos.
805 lượt xem
Ai đem giăng sáng giãi trên đồi chè (Demo)
Nhiều tác giả

Tuyển chọn những tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí đặc sắc về mảnh đất, con người và văn hoá trà Thái Nguyên

428 lượt xem
Tổng thư mục Ngô Tất Tố
NGÔ THỊ THANH LỊCH, Cao Đắc Điểm
Ba phần tư thế kỷ vừa qua, nhiều tác phẩm báo chí và văn học của tác giả Ngô Tất Tố đã trở nên quen biết, gần gũi với công chúng nước ta, đã thu hút sự quan tâm khảo cứu, bình luận của nhiều thế hệ bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình. Đến cuối thế kỷ trước, việc giới thiệu sự nghiệp sáng tác của Ngô Tất Tố hầu như được khép lại. Nhưng quả là bất ngờ: trong những năm gần đây mới tìm thêm được hơn 1350 di tác của tác giả đã “bị quên lãng” từ mấy chục năm nay. Tổng thư mục Ngô Tất Tố là kết quả tổng hợp đầy đủ danh mục tác phẩm đã đăng báo, đã in thành sách của tác giả bao gồm cả những tư liệu mới phát hiện được cùng hơn 300 danh mục các lời bình, các công trình nghiên cứu về tác giả. Tổng thư mục Ngô Tất Tố giới thiệu khái quát các danh mục về tài năng báo chí của một nhà báo lớn trong làng báo nước ta, về sức sáng tạo văn học của nhà văn hàng đầu sáng lập dòng văn học mới - văn học hiện thực của nước nhà, về bút lực đáng nể trọng viết lịch sử, khảo dịch, phê bình của tác giả, đồng thời nêu lên danh mục các chủ đề về muôn mặt cuộc sống của dân tộc ta khi đất nước chuyển bước sang thế kỷ 20 và cùng các tiêu đề về những “thông điệp” của tác giả gửi tới bạn đọc.
1143 lượt xem
Nam Cao - Sự nghiệp và chân dung
GS. Phong Lê
Viết về Nam Cao, soạn một cuốn sách về Nam Cao, ở thời điểm kỷ niệm 100 năm năm sinh (1915-2015), tác giả nghĩ đến cái hậu của một đời người và một đời văn đã được lưu lại nơi phần mộ cùng ngôi Nhà tưởng niệm Nam Cao trên đất quê Đại Hoàng đã được khánh thành cách đây hơn 10 năm và khu Vườn hiện thực Nam Cao đã từng khơi gợi rất nhiều hứng thú sáng tạo cho giới họa sĩ vào đầu năm 2006 ở Hà Nội. Thuộc trong số những người yêu mến và ngưỡng mộ Nam Cao, tác giả rất cảm động vì sự tôn vinh xứng đáng đó; và đồng thời cũng là một sự bù đắp - bởi sự hy sinh quá sớm của Nam Cao ở tuổi 36, với tư cách một nhà văn - liệt sĩ, trong chuyến về công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba, vào ngày 30/11/1951; và còn phải chờ tiếp hơn 46 năm sau đó, cho đến ngày 18/1/1998 thì di hài của ông mới đưa được về quê nhà cho một cuộc yên nghỉ vĩnh viễn. Đề tài về Nam Cao là đề tài tác giả theo đuổi từ hơn nửa thế kỷ qua nếu tính từ những bài viết đầu tiên về Nam Cao. Nhưng phải đến năm 1997, tác giả mới công bố cuốn sách mang tên Nam Cao - phác thảo sự nghiệp và chân dung. Gọi là “phác thảo” bởi tác giả vẫn chỉ muốn xem đây như là sự chuẩn bị trên con đường thâm nhập vào sự nghiệp sáng tạo của một nhà văn lớn thế kỷ XX mà tác giả là một bạn đọc rất mực yêu mến và chuyên cần. Nhân chuẩn bị kỷ niệm 100 năm năm sinh Nam Cao, tác giả tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cuốn “phác thảo” cũ, nhằm mở rộng và đi sâu hơn vào di sản quý giá của Nam Cao, mà tác gả tin còn chưa hoặc sẽ không bao giờ khép lại trong tầm đón nhận của nhiều thế hệ bạn đọc.
1685 lượt xem
Thơ Thăng Long - Hà Nội qua Hà thành thi sao
Đỗ Thị Hảo

Các tác phẩm nghệ thuật được sáng tác bằng chữ Hán Nôm - sản phẩm tinh thần của nhiều thế hệ đi trước là di sản tư liệu quý giá, tái hiện lại những giá trị, bản sắc văn hóa, văn hiến của dân tộc qua nhiều chặng đường lịch sử. Khôi phục lại nguồn tư liệu này là việc làm cần thiết để thế hệ bạn đọc ngày nay có cơ hội hiểu hơn về những giá trị truyền thống. Đó là mục tiêu của rất nhiều ấn phẩm trong Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến, trong đó có công trình Thơ Thăng Long - Hà Nội qua “Hà thành thi sao” do PGS.TS. Đỗ Thị Hảo chủ biên. Hà thành thi sao - cuốn sách sao chép lại những thi phẩm viết về Thăng Long - Hà Nội - là một trong những công trình tinh tuyển đặc sắc nhất trong dòng thơ ca Hán Nôm viết về Thăng Long - Hà Nội từ trước đến nay. Công trình được nhà Hán học Nhàn Vân Đình Trần Duy Vôn dày công biên soạn và sao chép lại từ năm 1975. Ở tập sách này, ngoài những tác giả có đôi bài thơ về Thăng Long Hà Nội được trích từ Hoàng Việt thi tuyển, Truyền kỳ lục, Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ, v.v... thì còn có tới 7 thi phẩm riêng về Thăng Long - Hà Nội được sao chép lại, đó là: La thành cổ tích vịnh, Thăng Long tam thập vịnh, Thăng Long thập cửu vịnh, Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ, Long Biên bách nhị vịnh, Long Biên ái hoa hội, An Nam kinh đô bát cảnh.

1790 lượt xem
Người thành thị méo mó
Nguyễn Đoàn
Truyện cười là một thể loại hiện đang được đông đảo độc giả yêu thích. Có độc giả nói với tôi, mỗi khi cầm một tờ báo quen thuộc trong tay, bài đầu tiên mở ra xem là xem trang có đăng truyện cười. Tại sao truyện cười lại được đọc giả yêu thích? Theo tôi, cái chính là độc giả muốn xem cách tác giả phát hiện ra cái hài hước, châm biếm về một sự vật, sự kiện, hiện tượng mà họ vẫn thường hay gặp trong cuộc sống thường nhật, để rồi sau đó người xem được cười và tự suy ngẫm sâu hơn về bản chất của sự việc, sự vật, hiện tượng ấy qua quan điểm phê phán của tác giả. Một truyện cười, trước hết vấn đề trình bày phải mang ý nghĩa xã hội đang được đông đảo quần chúng quan tâm. Ý nghĩa xã hội càng lớn, càng sâu sắc càng được nhiều độc giả đọc. Hiện nay, những vấn đề có ý nghĩa xã hội nổi bật là sự lạc hậu; sự xơ cứng của bộ máy hành chính; sự bất cập ở mọi cấp độ của hệ thống giáo dục; đô thị và cơ sở hạ tầng yếu kém (ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, ngập nước, mất điện); đầu tư nhiều công trình không có hiệu quả, nạn tham nhũng và lãng phí đang trở thành phổ biến, an sinh xã hội chưa tốt, hệ thống y tế đắt đỏ và chất lượng dịch vụ yếu kém v.v… Thứ hai, truyện cười phải có tính hài hước, châm biếm, vì vậy cách trình bày của nó phải mang tính văn học, có thắt nút tốt để người đọc tò mò theo dõi suốt cả câu chuyện, đến lúc đột ngột mở nút tạo ra được sự bất ngờ thú vị cho đọc giả khiến họ cười, nhưng cười mà xót xa trước sự tồn tại của cái xấu, mà căm giận cái xấu và muốn tham gia xoá bỏ cái xấu đó trong xã hội. Do đó, truyện cười không đả kích vào một con người cụ thể mà chỉ đả kích vào thói hư tất xấu của con người nói chung để mong sao con người tốt đẹp lên mà thôi. Ðó cũng là tính nhân văn của thể loại truyện cười. Vì thế, người viết truyện cười muốn thành công, phải biết yêu cuộc sống, yêu con người và luôn khát khao mong muốn cuộc sống và những con người quanh ta - trong đó có ta, ngày một hoàn thiện. Người thành thị méo mó là tuyển tập các truyện cười được tác giả ghi lại ở cuộc sống đời thường nơi thành thị...
765 lượt xem
Văn học Việt Nam (1900-1930)
GS. Phong Lê (Chủ biên)

Tập này trình bày lịch sử văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930. Đây là thời kỳ xã hội Việt Nam, sau khi thực dân Pháp dẹp xong phong trào Cần vương, đã chuyển sang chế độ bán phong kiến thuộc địa. Trong bối cảnh mới của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội là sự hình thành một nền văn học mới, trong chuyển động gấp rút từ trung đại sang hiện đại.
Cuốn sách được viết bởi các tác giả: GS. Nguyễn Huệ Chi, GS. Nguyễn Đình Chú, PGS. Nguyễn Văn Hoàn, GS. Phong Lê, PGS.TS. Trần Nho Thìn, PGS.TS. Phan Trọng Thưởng, PGS.TS. Trần Ngọc Vương. GS. Phong Lê chịu trách nhiệm Chủ biên. PGS.TS. Lưu Khánh Thơ phụ trách Thư ký công trình. Cấu trúc tập sách gồm 2 Phần, 18 Chương (không kể Chương Mở đầu và Kết luận), với quy ước về số trang - do Chủ biên khởi thảo và đã được các tác giả đồng thuận. Nhưng do nhiều người viết, và mỗi tác giả chịu trách nhiệm chính về phần viết của mình ở tư cách chuyên gia, nên một sự nhất trí về quan niệm và ý tưởng chung cho toàn bộ chỉ là tương đối (thậm chí có thể có sự khác nhau trong quan niệm, cách hiểu và sự đánh giá về một số hiện tượng nào đó); và sự chặt chẽ về cấu trúc và nội dung là khó thực hiện được như yêu cầu của công trình, và mong muốn của các tác giả

1669 lượt xem
Người đàn ông mưu cầu hạnh phúc
Gounelle
Một tác phẩm tuyệt vời, điển hình, hấp dẫn và đầy lý thú. Một cuốn tiểu thuyết nhưng giống như một cuốn cẩm nang sống với những tình tiết hết sức đời thường như hàng ngày chúng ta vẫn gặp nhưng bỏ qua rồi lại than rằng cuộc sống thật chán chường và vô nghĩa. Với cuốn Người đàn ông mưu cầu hạnh phúc bạn sẽ chứng kiến một thế giới mới được mở ra với mọi khả năng có thể. Tác giả Laurent Gounelle đã hiến tặng cho chúng ta một câu chuyện lý thú, qua đó, ta khám phá ra điều đã ngăn cản chúng ta sống hạnh phúc, thoải mái một cách thực sự. Cuốn sách mang hơi hướng triết học nhưng nhẹ nhàng, có chất tôn giáo của đạo Phật đánh thức tâm linh hướng thiện và lòng tin của con người. Cuốn sách Người đàn ông mưu cầu hạnh phúc đã được dịch ra 24 thứ tiếng và đã phát hành đến 800.000 bản tại Pháp.
793 lượt xem
Tiếp cận truyện kiều từ góc nhìn văn hóa
PGS.TS. Lê Nguyên Cẩn
Nguyễn Du (3/1/1765 - 16/9/1820) thuộc một trong số những người hiếm hoi mà dân tộc ta nói riêng, nhân loại nói chung đã may mắn sinh ra để vừa tôn vinh cho dân tộc vừa làm đẹp cho nhân loại. So với những thiên tài khác cùng thời như Goethe (1749 - 1832), hay trước đó một chút như Voltaire (1694 - 1778), thì số lượng tác phẩm mà Nguyễn Du để lại không nhiều. Song chỉ với Truyện Kiều, từ một cốt truyện vay mượn, bằng sáng tạo thiên tài của mình, Nguyễn Du đã xếp mình vào hàng ngũ các danh nhân thế giới, đã đưa văn học Việt Nam nói riêng, văn hoá Việt Nam nói chung vào kho tàng vô giá về văn hoá, văn học của nhân loại. Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở câu chuyện về một con người, một cuộc đời một số phận mà nó trải rộng ra với một tấm lòng, một cốt cách, một tinh thần Việt Nam. Truyện Kiều tạo ra cách nhìn dân tộc, làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam, làm say đắm lòng người độc giả mỗi thời đại. Mỗi một tác phẩm lớn của nhân loại đều là kết tinh không chỉ của một thời, không chỉ cho một thời mà kết tinh cho mãi mãi, mỗi thời đại sẽ đến với nó, sẽ rút ra từ nó những bài học nhân sinh bổ ích cho thời đại mình, tạo nên sự cộng hưởng thẩm mỹ nối liền quá khứ với hiện tại để từ đó con người tiếp bước tới tương lai. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là một cửa mở để đi vào khai thác các giá trị tinh thần mà tác phẩm bất hủ này của thiên tài Nguyễn Du tạo ra. Trước hết, chúng tôi xác lập góc nhìn văn hoá mà theo đó tác phẩm văn học là một trong những kết tinh cao nhất của văn hoá một dân tộc. Chúng tôi xác lập các mô hình thế giới được tạo ra trong tác phẩm để từ đó làm nổi bật thân phận và diện mạo của nhân vật Thuý Kiều. Từ đó chúng tôi điểm lại những thăng trầm chìm nổi của nhân vật trong bể trầm luân suốt mười lăm năm. Rồi từ đó chúng tôi đưa ra nhận xét về một tấm lòng nhân hậu mang vẻ đẹp vị tha, thuần Việt xuyên suốt chiều dài tác phẩm. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là một vấn đề lớn, hàm chứa nhiều khó khăn, không dễ giải quyết trọn vẹn ngay một lúc, một thời. Công trình của chúng tôi cũng chỉ dừng ở mức độ khởi đầu với những thu hoạch qua sự cảm nhận bước đầu về tác phẩm nổi tiếng này. Bảo vệ văn hoá dân tộc trong quá trình hoà nhập là việc làm không đơn giản, muốn vậy, trước hết, phải không ngừng nâng cao dân trí, mở mang trí tuệ và hiểu biết cho con người về di sản văn hoá của cha ông và của nhân loại. Từ đó, dẫn tới việc tăng cường dân khí, tạo ra bản lĩnh và niềm tin dân tộc. Nâng cao dân trí và tăng cường dân khí cũng chính là góp phần đắc lực bảo vệ dân tuý, giữ gìn bản sắc dân tộc. Tìm hiểu nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá cũng không ngoài những nhiệm vụ trên. Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá là tấm lòng chân thành tưởng nhớ một thi hào lớn của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng tôi chân thành cảm ơn nhà Văn hoá học - Ngôn ngữ học, GS. Phan Ngọc đã đọc và góp ý cho bản thảo này. Chúng tôi cũng chân thành cảm ơn GS.TSKH. Bùi Văn Ba; GS.TS. Trần Đình Sử; PGS.TS. Nguyễn Thái Hoà, PGS. Đặng Đức Siêu đã đọc bản thảo và góp cho chúng tôi nhiều ý kiến bổ ích. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã tận tình giúp đỡ để cuốn sách lại sớm được ra mắt độc giả. Công trình của chúng tôi khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Mọi sự góp ý đối với chúng tôi là vô cùng quý giá, không phải chỉ để nhằm hoàn thiện công trình mà để chúng ta có cùng cách hiểu, hiểu đúng hơn, đầy đủ hơn về một di sản lớn lao của văn hoá dân tộc, về một thiên tài sáng tạo của dân tộc.
1314 lượt xem
Định vị văn chương Việt
GS. Phong Lê
Tác giả Phong Lê là một nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, có thể nói ông là một chuyên gia hàng đầu bền bỉ nghiên cứu sâu về văn học Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua. Thành tựu nghiên cứu của ông không chỉ là hàng trăm bài phê bình trên các báo, tạp chí chuyên ngành mà còn là hơn 20 tác phẩm có giá trị nghiên cứu về văn học, mà “Định vị văn chương Việt” là một trong những tác phẩm như vậy. Định vị - là một thao tác cần thiết cho việc phân tích, bình giá một tác phẩm, tác giả, một trào lưu, một trường phái, một giai đoạn, trong và cho cả một nền văn học. Theo Phong Lê, định vị nền văn học Việt Nam từ trong chiều dọc và chiều sâu lịch sử, đó là sự định vị giá trị của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn trong xen cài và gắn bó với nhau qua những đỉnh cao như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu Phong Lê, trước năm 1945 xuất hiện ba trào lưu văn học: đó là trào lưu văn học cách mạng, trào lưu văn học hiện thực và trào lưu văn học lãng mạn. Thành tựu lớn của văn chương Việt được kết tinh qua rất nhiều chân dung tiêu biểu, trong đó ở vị trí đỉnh cao tương ứng với ba dòng văn học là Hồ Chí Minh, Nam Cao và Nguyễn Tuân... Theo Phong Lê, để định vị văn học hiện đại theo chiều đồng đại cần tìm đến yêu cầu hiện đại hóa đặt ra chung cho khu vực phương Đông; và ở đây cần một so sánh Việt Nam với các nước thuộc khu vực Đông Á là nơi những nước “đồng văn” tuy có cùng khởi điểm nhưng lại đi theo những con đường khác nhau để có gương mặt riêng trong thế kỷ XX. Với Việt Nam, thế kỷ XX - đó là con đường đi tới Cách mạng tháng Tám - 1945; để từ đây văn học Việt Nam hướng theo con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hơn 30 năm chiến tranh. Nếu như cuộc cách mạng văn hóa trong những năm này là lấy trọng tâm là dân tộc hóa và đại chúng hóa, thì từ thập niên 90, văn hóa đã đóng vai trò là mục tiêu và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của đời sống dân tộc; và do vậy việc định vị vai trò của văn học trong bối cảnh văn hóa cần thực hiện trên hai phương diện: chọn lọc và phát huy giá trị truyền thống cùng với tiếp cận và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nước ngoài. Dưới cây bút Phong Lê, những định vị giữa các khu vực, các bộ phận trong văn học, văn hóa dân tộc trên hành trình một thế kỷ XX, với gương mặt hiện đại của nó, qua một cái nhìn bên trong – là những nét chính được thể hiện trong Định vị Văn chương Việt của ông.
1104 lượt xem
Truyện ngắn Lào đương đại (Tái bản lần thứ 1)
Hồng Toàn, Vănmay Xuckoongmy
Truyện ngắn Lào đương đại kể lại những truyện để bạn đọc hình dung ra thiên nhiên và con người Lào. Họ hiền lành, mộc mạc và đáng yêu biết bao, và chắc chắn truyện của họ cũng phản ánh được cuộc sống và tính cách ấy. Trong 5 năm ở Lào, tác giả có may mắn là đã đi tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa tại các địa phương, ngoài thủ đô Viêng Chăn. Vì thế đến được hết các tỉnh và nhiều huyện, các vùng nông thôn của nước Lào. Phía bắc thì qua Luông Pha Bang, U Đôm Xay, Luông Nặm Thà, Bò Kẹo, qua phà Huổi Xay trên sông Mê Kông sang Xiêng Không, Xiêng May (Thái Lan). Hoặc xuống Xay Nhabuli, hoặc ngược U Đôm Xay lên Phong Sa Lỳ, về Hủa Phăn, Sầm Nưa, xuống Xiêng Khoảng để đến cánh đồng Chum bí ẩn mênh mang. Phía nam theo đường quốc lộ Mười Ba qua các tỉnh Trung Lào, qua bến phà Thà Khẹt, nơi ghi dấu ngày đẫm máu năm 1944, đến các vùng lăm vông nổi tiếng Sa La Văn, Sê Kông, At Ta Pư, Chăm Pa Sắc, đến tận Chùa Vát phu cổ kính, thác Pa Pêng nằm giữa sông Mê Kông hùng vĩ, ngã ba của ba nước Lào, Thái Lan và Cam-pu-chia. Mọi người đến Lào đều có chung một cảm nhận là phong cảnh đất nước này đẹp, không khí trong lành, xã hội thanh bình, nhẹ nhàng, cuộc sống ở đây thanh thản, chậm rãi... Không gian hiền hòa và tĩnh lặng, mật độ dân số thưa thớt, tốc độ đô thị hóa chậm, tài nguyên thiên nhiên còn nguyên vẹn, nhu cầu cuộc sống giản dị, bình yên... Hiện thực ấy cùng với các triết lý của Phật giáo ngấm sâu vào lối sống từ hàng ngàn đời đã tạo nên một lối sống dân tộc: lối sống thanh nhàn, giản dị và trong sáng. Người ngoài không hiểu, cứ nghĩ là một lối sống nhàn tản, chậm chạp. Triết lý ấy, phong cách ấy làm cho cuộc sống thanh thản, ít bon chen, chân thành và chân chất. Người Lào hiền lành từ những điều ấy.
992 lượt xem