Tiếng Việt
Chọn ngôn ngữ
Tiếng Việt
English
Tiếp cận cuốn sách bạn đọc có những hình dung về bức tranh kiến trúc Thăng Long - Hà Nội, hiểu được quá trình hình thành diện mạo kiến trúc Thăng Long từ những tụ cư bên sông Hồng tới Đại La, định đô Thăng Long và diện mạo ban đầu, Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ, Thăng Long thời Lê - Mạc - Tây Sơn, Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn; những xây dựng đầu tiên của Pháp ở Hà Nội, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, cấu trúc không gian đô thị thời Pháp thuộc. Bên cạnh đó là diện mạo kiến trúc Hà Nội từ hoà bình trở lại đến những năm đổi mới, những hình ảnh quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội năm 2011 và điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Vùng Thủ đô; kiến trúc Hà Nội thời kỳ mới hội nhập, thời kỳ của kỹ thuật công nghệ mới và biến động của kinh tế - xã hội, kiến trúc Hà Nội nhìn về phía trước.
Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại. Quá trình hiện đại hóa diễn ra với nhiều cấp độ và
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu đứng về góc độ phân kỳ văn học mà xét thì mốc lớn 1945 chấm dứt gần một trăm năm nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp, khai sinh ra nhà nước dân chủ cộng hòa do nhân dân làm chủ được xem là chuyển động lịch sử lớn nhất của thế kỷ và cũng là của mọi hoạt động sáng tạo tinh thần trong đó có văn học. Từ 1945 cho đến hết thế kỷ XX, hơn nửa thế kỷ có hai giai đoạn lớn: thời kỳ 1945-1975 diễn ra hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống thực dân Pháp và chống Mỹ xâm lược. Từ 1975 cho đến năm 2000 là thời kỳ đổi mới của đất nước và cũng là của văn chương bao gồm hai giai đoạn nhỏ: tiền đổi mới 1975-1986 và đổi mới toàn diện 1986-2000. Trở lại với gần nửa thế kỷ đầu của văn học cũng có thể chia thành hai giai đoạn 1900-1930 và 1930-1945. Ba mươi năm đầu thế kỷ là thời kỳ hệ tư tưởng phong kiến suy thoái và được thay thế bằng những tư tưởng dân chủ tiến bộ. Ảnh hưởng của phương Tây, nhất là những tư tưởng của cách mạng tư sản Pháp về bình đẳng, bác ái, tự do đã tác động đến tầng lớp tri thức và văn nghệ sĩ. Văn học Pháp ảnh hưởng trực tiếp đến văn học Việt Nam và góp phần hình thành nhiều thể loại và tạo thêm nhiều cái mới cho văn học.
Bộ Lịch sử văn học Việt Nam được biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về văn học Việt Nam của đông đảo bạn đọc và các nhà chuyên môn. Tổng Chủ biên là Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hà Minh Đức, cùng với sự tham gia cộng tác của rất nhiều nhà khoa học trong giới văn học ở các viện nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học trong cả nước.
Dựa trên kết quả phân kỳ lịch sử văn học, bộ Lịch sử văn học Việt Nam dự kiến gồm 10 tập. Tùy dung lượng, có tập sẽ chia thành nhiều quyển. Với mục tiêu tổng kết thực tiễn lịch sử văn học Việt Nam, bộ sách là công trình khoa học có chất lượng, có tính hệ thống và quan điểm khoa học hiện đại, góp phần khẳng định vị thế, vai trò của văn học Việt Nam với tư cách một lĩnh vực khoa học chuyên ngành và trong tương quan liên ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung.
Trong đó tập trung nhận thức, đánh giá và định giá các hiện tượng văn học, các giai đoạn văn học một cách khách quan, thỏa đáng đặt trong bối cảnh dân tộc, khu vực và quốc tế. Công trình là bức tranh đa dạng và phong phú với những đường nét riêng chung, mang tính tổng kết mười thế kỷ văn học với giá trị khoa học và thực tiễn lớn, hỗ trợ cho việc nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc ở các viện nghiên cứu và cho việc giảng dạy văn học sử Việt Nam ở các trường đại học khoa học xã hội và nhân văn, các trường đại học sư phạm và trung học, đồng thời đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của đông đảo bạn đọc.
Bộ Lịch sử văn học Việt Nam lần này được sắp xếp theo các thời kỳ lịch sử của văn học, từ văn học dân gian đến văn học thành văn ở các giai đoạn thuộc thời kỳ trung đại, cận đại, hiện đại với những đỉnh cao của các phong cách sáng tạo. Sách có cấu trúc như sau:
Tập I: Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học dân gian
Tập II: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ X - hết thế kỷ XIV)
Tập III: Lịch sử văn học Việt Nam (thế kỷ XV)
Tập IV: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVI - thế kỷ XVII)
Tập V: Lịch sử văn học Việt Nam (từ thế kỷ XVIII - nửa đầu thế
kỷ XIX)
Tập VI: Lịch sử văn học Việt Nam (nửa sau thế kỷ XIX)
Tập VII: Lịch sử văn học Việt Nam (1900-1930)
Tập VIII: Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945)
Tập IX: Lịch sử văn học Việt Nam (1945-1975)
Tập X: Lịch sử văn học Việt Nam (1976-2000)
Mỗi một tập trong bộ Lịch sử văn học Việt Nam có một hoặc đồng tác giả chủ biên, được biên soạn theo phương châm cập nhật, chất lượng và cố gắng bám sát tiến trình các giai đoạn phát triển của Lịch sử văn học Việt Nam. Mỗi tập do một tập thể biên soạn là các nhà nghiên cứu có uy tín trong giới văn học trong nước cũng như trên trường quốc tế.
Bộ sách chia làm 2 tập: Tập 1: Diện mạo văn học cận hiện đại Lào (GS,TS Nguyễn Đức Ninh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á-Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam viết). Tập 2: Nhận diện văn xuôi Lào hiện đại - quá trình hình thành và đặc điểm phát triển của thể loại (GVC Trần Thúc Việt - Khoa Văn học - Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội viết). Ngoài ra, trong mỗi tập sách cũng được các tác giả tuyển chọn, giới thiệu một số tác phẩm thơ ca, truyện ký, tiểu thuyết tiêu biểu của nền văn học cận hiện đại Lào. Hy vọng, đây sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích đối với bạn đọc trong và ngoài nước cũng như các bậc đào tạo nghiên cứu của Việt Nam về một thời đại văn học mới ở Lào. Trân trọng giới thiệu Bộ sách cùng bạn đọc!
Truyện đọc lịch sử Việt Nam tập 7 giới thiệu các truyện về triều đại nhà Nguyễn thời độc lập tự chủ.
Tập I- Nợ nước non là tập vô cùng quan trọng hay có thể nói là tập quan trọng nhất của bộ tiểu thuyết này. Đấy là chặng đường quan trọng nhất để hình thành một con người, đặc biệt là một vĩ nhân với những yếu tố vô cùng quan trọng: gia đình, hoàn cảnh lịch sử đất nước, thế giới, điều kiện sống, giáo dục, tư chất, những vẻ đẹp tâm hồn, sự quan sát đời sống, chặng đường nhận thức của nhân vật...Đây cũng là tập mà nếu nhà văn không thuyết phục được bạn đọc, không tạo ra sự đợi chờ của bạn đọc cho những tập tiếp theo thì nghĩa là bộ tiểu thuyết đã kết thúc với bạn đọc cho dù nhà văn đang tiếp tục viết. Và tôi, một bạn đọc đầy cảm hứng để đọc bộ tiếu thuyết này với nhiều lo lắng cho chính tác giả. Nhưng giờ đây, tôi đã đọc xong Nợ nước non và bắt đầu đợi những tập tiếp theo.
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng núi liền núi, sông liền sông, có quan hệ gắn kết keo sơn trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển. Trong hơn bảy thập niên qua, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo sau này của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân dày công vun đắp, trở thành tài sản chung vô giá của hai dân tộc. Nhân kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (18/7/1977 - 18/7/2017) và 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (05/9/1962 - 05/9/2017)Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với các chuyên gia tổ chức biên soạn, xuất bản bộ sách về mối quan hệ gắn bó giữa Việt Nam - Lào Bộ sách gồm 11 cuốn giới thiệu những thông tin cơ bản về đất nước và con người Lào, về những đặc trưng của đất nước Triệu Voi thông qua các lĩnh vực lịch sử - quân sự, chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội,... cùng song hành trong thế tương quan so sánh với những đặc trưng về đất nước và con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ sách còn đi sâu phân tích mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và những triển vọng kết nối trên tất cả lĩnh vực. Qua đó giúp cho việc triển khai hiệu quả kế hoạch hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới và cũng là nhằm hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung, đặc biệt là với đất nước Lào; nhằm không ngừng củng cố, tăng cường và phát triển hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam - Lào, đúng như mong muốn và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt - Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.
Cuốn sách sưu tầm, tổng hợp, thống kê các nguồn tài liệu trên sách báo, ấn phẩm xuất bản trước năm 1945 nhằm đưa đến một cái nhìn hệ thống, toàn cảnh về tất cả các vấn đề, sự kiện, hiện tượng liên quan đến phong trào Thơ mới Hà Nội. Với định hướng đó, đúng như tên gọi, cuốn sách lựa chọn cách trình bày tư liệu theo thể thức biên niên với 14 mục tương ứng với 14 năm - quãng thời gian Thơ mới xuất hiện và thoái trào, từ 1932 đến 1945. Trong mỗi năm, sự kiện sẽ được sắp xếp, trình bày theo cấp độ từng tháng, từng ngày theo đúng trật tự xuất hiện là thời điểm được xuất bản trên các ấn phẩm.
Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”,và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp.
Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập.
Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh.
Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được.
Năm 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.
Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.
Truyện đọc lịch sử Việt Nam tập 5 giới thiệu các truyện thuộc triều Lê sơ (1428 – 1527).
Truyện đọc lịch sử Việt Nam tập 2 bao gồm những truyện về giai đoạn lịch sử từ năm 179 TCN đến năm 938 SCN - đánh dấu bằng sự kiện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc.
Hai bậc thầy, hai nhà phê bình lớn và cũng là bậc tiền bối của tôi ở Viện Văn học là Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại”,và Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam”; một người chọn 79 nhà văn, một người chọn 45 nhà thơ cho sách của mình. Còn tôi, ở sách này, tôi chọn 85 nhà văn, nhà văn hóa là đối tượng tôi đã có hạnh phúc được đọc, được khảo sát, được chiêm nghiệm trong suốt hành trình nghề nghiệp, kể từ năm 1960 là năm tôi vào nghề, ở địa chỉ công tác là Viện Văn học - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội.
Con số 85 tác giả, xếp theo thứ tự năm sinh, với khởi đầu là một số tên tuổi làm nên những chuyển động lớn trong văn học thời trung đại, kể từ Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm... cho đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ...; còn số rất lớn là những tên tuổi làm nên gương mặt thế kỷ XX khi văn học Việt Nam chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Do hứng thú riêng, do nhu cầu của công việc và do các giới hạn của khả năng nên tôi chỉ có thể đến với 85 “gương mặt”. Còn nhiều, rất nhiều tên tuổi khác cũng rất tiêu biểu, rất sáng giá, rất đáng tôn vinh đã được đề cập ở nhiều cuốn sách khác của các bậc thầy và đồng nghiệp. Mặt khác, dừng lại ở 5 gương mặt thuộc thế hệ 4X, tôi cũng đành phải để trống rất nhiều tên tuổi mới và trẻ, ở các thế hệ từ sau 5X là đội ngũ hiện đang đóng vai trò chủ lực làm nên gương mặt văn chương Việt thời Đổi mới và Hội nhập... Chọn cách viết chân dung cho 85 tác giả ở sách này tôi muốn đến với một mục tiêu khác, một cách tiếp cận khác với hai cuốn sách đã in: “Phác thảo văn học Việt Nam hiện đại - thế kỷ XX“ và “Văn học Việt Nam hiện đại trong đồng hành cùng lịch sử”; cả ba có ý nghĩa bổ sung cho nhau để làm nên một tổng kết cho 50 năm nghề và nghiệp.
Một số tác giả trong sách này tôi có quá trình “theo đuổi” khá lâu; nếu tính từ bài viết đầu tiên thì có người là trên 50 năm như Nam Cao, hoặc trên 30 năm như Hồ Chí Minh - cả hai đều đã có công trình in riêng. Có tác giả, tôi có dịp viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đưa vào sách này, thì tất cả đều được viết mới, viết lại trong bối cảnh hơn ba thập niên mang tên Đổi mới và Hội nhập.
Và, dẫu dài hoặc ngắn, qua 85 chân dung, tôi đều có chủ ý hoặc mong muốn khai thác cho được một hoặc vài khía cạnh có ý nghĩa, trước hết đối với bản thân mình, nhằm qua họ mà thấu hiểu những bài học nhân sinh và nghề nghiệp trước các yêu cầu và thử thách của hoàn cảnh.
Tám mươi lăm, hoặc năm mươi, hoặc một trăm, hoặc hơn nữa để nói đến những gương mặt tiêu biểu của văn hóa, văn chương, học thuật Việt Nam - đó là điều tùy thuộc vào quan niệm và cách chọn của mỗi người. Đây chỉ là cách chọn phù hợp với vốn đọc, vốn nghĩ, vốn hiểu, sự yêu mến, và cả những bất cập cùng hạn chế của riêng tôi. Dễ hiểu là còn rất nhiều người xứng đáng mà tôi chưa có điều kiện viết, hoặc chưa viết được.
Năm 2017, 85 chân dung văn hóa văn chương Việt đã được xuất bản và phát hành dưới dạng sách in, may mắn thay, ấn bản này được đông đảo độc giả đón nhận và phản hồi tích cực. Đến nay, năm 2025, tôi lại được Nhà xuất bản ngỏ lời xuất bản thành bộ sách 3 tập dưới dạng sách điện tử và sách nói. Mong muốn với sự hỗ trợ của công nghệ, những ấn bản “chuyển đổi số” sẽ vươn xa, đến nhanh và đến gần hơn với bạn đọc bốn phương.
Cuối cùng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông và Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã có rất nhiều động viên và giúp đỡ quý báu trong quá trình xuất bản “đứa con tinh thần” này.
Khi đọc xong bản thảo Lênh đênh bốn biển, tập 2 trong bộ tiểu thuyết về con người vĩ đại Hồ Chí Minh có tên Nước non vạn dặm, tôi nhận thấy rằng nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã dựng lên được con đường mà một vĩ nhân của dân tộc đã đi. Cũng chính lẽ đó mà nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã đi qua được chặng đường quan trọng nhất của bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm. Khi đọc đến trang cuối cùng của tập 2 Lênh đênh bốn biển, trong tôi vang lên bài thơ của nhà thơ danh tiếng Ko Un, người Hàn Quốc:
Con đường ra đi là con đường trở thành nhà sư
Con đường trở về mới là con đường để trở thành Đức Phật
Nhưng người chỉ có thể trở về khi đích thực ra đi. Và trong hai tập 1 và 2 của bộ tiểu thuyết Nước non vạn dặm, nhà văn Nguyễn Thế Kỷ đã dựng lên con đường ra đi và con đường trở về của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Con đường ra đi của Người chính là con đường yêu nước mang tên Nguyễn Tất Thành và con đường trở về đã biến người thanh niên ấy thành một con người mang tên Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, thành một thời đại mang tên thời đại Hồ Chí Minh.