Tiếng Việt
Chọn ngôn ngữ
Tiếng Việt
English
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.14)
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.011-Q2)
The emergence of artificial intelligence and digital technology has profoundly changed Asian cultural and social values, becoming one of the most concerned topics today in Vietnam as well as in the world. In response to that practical requirement, from November 22 to 24, 2024, the Institute of Cultural Anthropology, Hanoi, in collaboration with Hue College, Malang National University, Indonesia, Hyderabad University, India, and Mahasarakham University, Thailand, organized the 7th International Conference on Asian Culture and Society in the Digital Context (with the general theme of “Language, Society, and Culture in Asian Contexts - LSCAC 2024”).
The College of Hue is honored to host the 7th international conference on Language, Society, and Culture in Asian Contexts in Hue city. The main objective of this conference is to analyze the impact of digital technology in the comprehensive application and development of Asian society and culture. It also identifies the characteristics that constitute the strength of Asian society, such as its multicultural and multilingual social structure, diversity, and resilience of these countries.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.07)
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.13/Q2)
TOPICS OF THE WORKSHOP
1. Materials for Electronics and Photonics (code: MEP)
2. Nanostructured Materials and Devices (code: NMD)
3. Materials and Technologies for Green Energy and Decarbonization (code: MED)
4. Materials and Nanotechnologies for Life Sciences (code: MLS)
5. Materials and Ecological Technologies for Environment (code: MEE)
6. Advanced Engineering Materials (code: AEM)
7. Materials Data and Machine Learning (code: MDM)
Báo cáo tình hình ứng dụng và phát triển chữ ký số tại Việt Nam năm 2024 cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình ứng dụng chữ ký số trong các hoạt động của các bộ, ngành, doanh nghiệp dựa trên cơ sở thông tin và số liệu cập nhật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ban Cơ yếu Chính phủ; Tổng cục Thuế; Tổng cục Hải quan; Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Kho bạc Nhà nước; Cục Quản lý đấu thầu - Bộ Kế hoạch và Đầu tư; các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng của cơ quan, tổ chức.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.02)
Đăng ký và Thống kê hộ tịch là hoạt động thường xuyên, liên tục của mỗi quốc gia. Thông qua đăng ký hộ tịch Nhà nước bảo đảm các quyền dân sự cơ bản của cá nhân, đồng thời theo dõi, quản lý được những thay đổi về thông tin công dân và tình hình biến động thực tế của dân cư. Qua đó phục vụ xây dựng, hoạch định, phát triển các chính sách kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong vòng 8 năm qua, kể từ khi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Nhất của khu vực châu Á - Thái Bình Dương về đăng ký và thống kê hộ tịch (CRVS - tháng 11/2014), tình hình đăng ký và thống kê hộ tịch ở các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương đã có nhiều khởi sắc. Công tác đăng ký hộ tịch đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của tất cả các Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương trong khu vực. Nhận thức của các tầng lớp nhân dân, dân cư về ý nghĩa, vai trò của đăng ký hộ tịch đã được nâng lên rõ rệt. Hệ thống đăng ký hộ tịch đối với những nhóm dân cư yếu thế ở các khu vực khác nhau của châu Á - Thái Bình Dương đã được cải thiện đáng kể. Với định hướng đăng ký hộ tịch phổ cập, các quốc gia đang phấn đấu đến năm 2025 tất cả những người dân trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều được đăng ký và cấp giấy tờ hộ tịch, được định danh pháp lý đầy đủ theo phương châm “Không ai bị bỏ lại phía sau”.
Tháng 11/2021 đã diễn ra Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Hai về đăng ký, thống kê hộ tịch của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá một cách tổng thể về những kết quả đạt được trong nửa đầu của thập niên CRVS, đồng thời đưa ra quyết tâm chính trị cao cả để tiếp tục thúc đẩy/tăng tốc đăng ký hộ tịch bảo đảm đạt được các mục tiêu quan trọng của nửa sau thập niên CRVS khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhằm “xây dựng một tương lai bền vững hơn với đăng ký và thống kê hộ tịch toàn diện”.
Trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các tài liệu được đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Hai khu vực châu Á - Thái Bình Dương về CRVS (tháng 11/2021), Tiến sĩ Nguyễn Công Khanh - nguyên Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và Thạc sĩ Lò Thùy Linh, Phó Trưởng phòng Phòng quản lý hộ tịch, Cục hộ tịch, quốc tịch, chứng thực của Bộ Tư pháp đã biên soạn cuốn sách “Đăng ký và Thống kê hộ tịch: Bảo đảm quyền con người vì Mục tiêu Phát triển Bền vững”. Cuốn sách cung cấp
cho người đọc cái nhìn tổng thể, bao quát nhất về kết quả đăng ký, thống kê hộ tịch thời gian qua ở các quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có các nước ASEAN và Việt Nam. Nội dung cuốn sách gồm 9 chương, đề cập toàn diện về vai trò, ý nghĩa của đăng ký, thống kê hộ tịch trong việc bảo đảm quyền con người vì Mục tiêu Phát triển Bền vững theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc; về lợi ích của việc khai thác, sử dụng dữ liệu hộ tịch để ra quyết định ở các cấp chính quyền; về tầm quan trọng của đăng ký hộ tịch đối với việc thiết lập định danh pháp lý của mỗi cá nhân; về trách nhiệm bảo mật dữ liệu hộ tịch, bí mật đời tư cá nhân của các quốc gia trong đăng ký, thống kê hộ tịch v.v…
Cuốn Cẩm nang này được xây dựng trên cơ sở các bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, thực tiễn của những người đã trăn trở, đã trực tiếp tham gia hoạch định cơ chế, chính sách, chiến lược và thực thi chuyển đổi số, với sự chung tay, giúp sức, kế thừa tri thức của nhiều chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nhân Việt Nam. Lần tái bản này đã tiếp thu các ý kiến phản hồi, góp ý để chỉnh sửa, cập nhật. Đặc biệt, lần tái bản này bổ sung thêm nhiều câu chuyện chuyển đổi số ở Việt Nam, trên thế giới và 365 câu trích dẫn về chuyển đổi số.
Các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc đa số là các hợp tác xã có quy mô nhỏ; số lượng thành viên ít nên có vốn rất hạn chế. Thành viên của các hợp tác xã nông nghiệp ở đây đa số là người dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ học vấn không đồng đều, nên hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ gặp nhiều khó khăn, thiếu ổn định hơn các vùng khác. Do vậy giải pháp để xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp đã đặt ra những thách thức lớn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ thực hiện tiêu chí về Thông tin và Truyền thông. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với Viện Phát triển kinh tế hợp tác - Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Nâng cao hiệu quả Hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới”. Nội dung cuốn sách cung cấp những thông tin và kiến thức hữu ích cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiệm vụ thông tin tuyên truyền về tình hình tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, tăng thu nhập cho thành viên hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và góp phần xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Nội dung sách có sử dụng các khảo sát của nhóm tác giả cũng như các báo cáo của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để từ đó có con số thực tế cho việc xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách cho việc phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q2)