Ấn phẩm khác
Lò hơi trong sản xuất điện và trong công nghiệp -  Tập 1: Tổng quan về lò hơi
PGS.TS Trương Duy Nghĩa

Nội dung cuốn sách này được dùng làm sách giáo khoa cho sinh viên các ngành Kỹ thuật nhiệt khi học môn học lò hơi, khi thực hiện các tính toán, thiết kế về lò hơi, đồng thời cũng là sách tham khảo cho các kỹ sư công tác về lò hơi, lò đốt. Nội dung trình bày những vấn đề lý thuyết và kỹ thuật cơ bản nhất về lò hơi, và cũng là những kiến thức chung cho cả lò hơi công nghiệp và lò hơi điện, để cho các kỹ sư tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, nhất là các kỹ sư không tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, đang công tác về lò hơi và lò đốt có thể tự học thêm để hiểu sâu các quá trình xảy ra trong lò. Một số kiến thức, một số chỉ tiêu thực tế rút ra từ kinh nghiệm vận hành, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng sách. Cuối sách có các bài đọc thêm, ngắn gọn, nhằm làm rõ hơn, mở rộng hơn các nội dung trình bày trong chương, được hiểu như là các nội dung tham khảo.

1442 lượt xem
Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Bàn (1947 – 2025)
Đảng bộ tỉnh Lào Cai, Ban Chấp hành đảng bộ huyện Văn Bàn

Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Bàn (1947-2025) ghi lại quá trình ra đời, phát triển và trưởng thành của Đảng bộ huyện qua 78 năm lịch sử đầy gian khổ mà vẻ vang. Từ thời kháng chiến, khắc phục hậu quả chiến tranh đến thời xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ luôn khẳng định vai trò lãnh đạo, đưa phong trào cách mạng của huyện từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuốn sách phản ánh sức mạnh của Đảng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, đồng thời khích lệ thế hệ sau tiếp nối truyền thống quý báu này.

736 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q1)

769 lượt xem
Cuộc đời và sự nghiệp của một số nhà toán học nổi tiếng
GS TSKH. Nguyễn Duy Tiến
Cuốn sách là những câu chuyện hay, những kỷ niệm đáng nhớ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn cuộc đời cũng như sự nghiệp của một số nhà toán học Việt Nam và trên thế giới, cụ thể nội dung như sau: - Nội dung cuốn sách đi sâu vào những điểm mạnh và yếuc ủa nền Toán học Việt Nam. Vì thế, bài mở đầu của cuốn sách là chỉ số ISI và chỉ số H, các chỉ số này cho ta biết chất lượng công trình khoa học tốt hay không tốt. - Kể chuyện về các nhà toán học là thầy giáo của tôi, GS. Hoàng Tụy, GS. Hoàng Hữu Như, GS. Nguyễn Bác Văn, GS. Hoàng Hữu Đường. Những điều tôi kể trong sách này đều là những câu chuyện có thật, không hề hư cấu. - Thể hiện về tình cảm của tôi đối với những nhà Toán học Quốc tế như GS. Laurent Schwartz, là một trong những nhà toán học có công lao to lớn đối với nền Toán học Việt Nam.
787 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa
TS. Nguyễn Phương Liên
Con người từ buổi sơ khai đã sinh ra và tồn tại ở khắp nơi trên Trái đất, để có thể sinh tồn, theo một cách rất bản năng, họ kết lại thành bầy đàn để tự vệ cũng như lao động sản xuất. Từ sự tự phát bản năng ấy, các nhóm cùng tồn tại trên một phạm vi lãnh thổ, cùng lao động, tích lũy, làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Song hành cùng quá trình đó chính là sự tự ý thức về chủ quyền, quyền lực ngày càng rõ ràng hơn. Quá trình tất yếu tiếp theo chính là nhu cầu về sự mở rộng phạm vi sống, chinh phục những miền đất mới và làm giàu tích lũy. Sự chia cắt, sáp nhập, di dời, lưu vong đã tạo ra những biến cố liên tục dẫn đến những thay đổi tất yếu và thường xuyên trong cộng đồng người. Để có thể vượt qua các mâu thuẫn nảy sinh đó, con người chọn cách gắn kết chặt chẽ lại với nhau và phân biệt nhau không chỉ trên lãnh thổ. Điều này nghĩa là gì? Văn hóa được tạo ra không phải sự tách biệt, riêng biệt, mà nó là sản phẩm của sự sáng tạo trong quá trình phát triển và văn hóa cũng chính là một dạng “cương vực, lãnh thổ” bởi nó mang đặc trưng dân tộc, hay căn tính dân tộc. Căn tính dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội, được xác lập trên cơ sở những đặc điểm của hiện hữu khách quan ban đầu khi cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình cộng đồng đó vận động, phát triển. Căn tính của một dân tộc được hợp nhất bởi căn tính của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hóa, dung hòa và thích nghi để cùng tồn tại, do đó, nó đại diện cho một nhóm người trong một phạm vi không gian văn hóa nhất định. Như vậy, văn hóa chính là một mặt biểu hiện quan trọng của căn tính dân tộc. Đi tìm bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc (national identity) hay tính dân tộc (nationality) thực chất đều là đi tìm cái riêng, cái đặc thù về văn hóa của dân tộc ấy. Điều này có thể hiểu là, nếu lãnh thổ là cơ sở đầu tiên để xác định một dân tộc thì nền tảng tiếp theo để làm nên dân tộc tính của một cộng đồng người chính là những tập quán và tính cách được hình thành trong một thời gian dài chung sống với những điều kiện tự nhiên xã hội nhất định. Mỗi một cá nhân khi sinh ra sẽ mang những căn tính riêng thuộc về mặt sẵn có, tuy nhiên, mặt khác nó tiếp tục hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên và sinh tồn. Căn tính cá nhân đó ảnh hưởng từ phạm vi nhỏ là cộng đồng gia đình, đến phạm vi lớn là cộng đồng dân tộc. Hiếm có dân tộc nào cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn thành phần tộc người, phạm vi lãnh thổ, hình thái xã hội như buổi sơ khai con người tìm đến với nhau và quyết định chia sẻ môi sinh, tài nguyên thiên nhiên và quyền lợi tập thể. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu trong bài viết “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 1/1986 đã khẳng định rằng: “Cho nên, tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, nếu không muốn là suy đoán chủ quan, thay thế kết luận khoa học bằng những mục tiêu tuyên truyền, như khi kháng chiến thì nói đặc tính của dân tộc ta là yêu nước, bất khuất, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì là cần cù lao động, khi gặp khó khăn thì lại là lạc quan yêu đời… thì chúng ta không nên hình dung đó là công việc nhận xét tổng hợp các thành tựu về tư tưởng, văn học, hội họa, âm nhạc, kiến trúc,… mà phải đánh giá đầy đủ bản lĩnh sáng tạo của dân tộc”. Điều mà nhà nghiên cứu muốn chỉ ra ở đây là vốn văn hóa dân tộc không được xác lập ngay vào thời kì định hình mà là cái được ổn định dần qua thời gian cho đến trước thời cận hiện đại. Bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc của một đất nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi và ổn định trước công cuộc mở cửa và hội nhập như vũ bão của thời đại toàn cầu hóa. Bên cạnh chúng ta, người Khmer với quốc gia mang tên Campuchia hiện nay cũng đang từng bước vững chắc phục hưng nền văn hóa trong văn minh lâu đời của chính mình như sức mạnh để vươn tới vị trí cao hơn sau những khủng hoảng về chính trị đã cách xa gần nửa thế kỷ.
1378 lượt xem
ADVANCES IN THE EARTH, MINING  AND ENVIRONMENTAL SCIENCES FOR SAFE  AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT  Volume 1: Advanced Technologies and Artificial Intelligence in the Earth and Environmental Sciences
VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, The State Council for Professorship, Interdisciplinary Professor Council of the Earth and Mining Sciences

Foreword

In an era where technology and artificial intelligence (AI) are rapidly reshaping scientific disciplines, the fields of the Earth and environmental sciences, and geotechnical engineering are experiencing unprecedented advancements. This book, Advanced Technologies and Artificial Intelligence in the Earth and Environmental Sciences, marks the inaugural volume in the series Advances in the Earth, Mining and Environmental Sciences for Safe and Sustainable Development. It features a selection of high-quality research papers presented at the GeoAI2024 International Conference.

This publication represents the collaborative efforts of VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, the Interdisciplinary Professor Council of the Earth and Mining Sciences, and a broad network of esteemed institutions and organizations, including the Vietnam Union of Geological Sciences, Vietnam Association of Engineering Geology and Environment, Institute of Geological Sciences - Vietnam Academy of Science and Technology, Norwegian Geotechnical Institute, Vietnam Atomic Energy Institute, Hanoi University of Mining and Geology, and Dong Nai Technology University.

The support and cooperation of these institutions have been instrumental in bringing this volume to fruition.

This book represents a focused exploration of the transformative role of technology and AI in addressing critical challenges in sustainability and environmental resilience. The content is organized into three thematic sections: Part 1: Earth Technology and Geotechnical Engineering This section explores innovative methods for addressing geotechnical and geological challenges with a focus on sustainability, resilience, and safety. The studies of this part demonstrate how modern technologies and engineering can advance infrastructural development while minimizing environmental risks.

Part 2: Environment and Recycled Materials This section addresses environmental challenges through creative approaches, including pollution control, resource recovery, and sustainable materials. The research in this part highlights innovative ways to restore and protect the environment, contributing to a more sustainable future.

Part 3: Digital Transformation and GeoAI The final section demonstrates the transformative power of AI, machine learning, and digital technologies in the Earth and environmental sciences. Contributions cover a wide spectrum of applications, including IoT-based environmental monitoring and AI-assisted disaster detection. This section exemplifies the role of GeoAI in reshaping our understanding of natural processes and improving decision-making for sustainable development.

We express our sincere gratitude to the authors, researchers, and practitioners whose works have shaped this volume. Special thanks go to the GeoAI2024 International Conference, which provided a vibrant platform for collaboration, innovation, and knowledge exchange. The collective efforts of contributors and organizers have ensured that this book captures the forefront of technological innovation in the Earth and environmental sciences.

This volume aims to inspire researchers, practitioners, and policymakers, encouraging them to explore and implement advanced technologies and AI in tackling some of the most pressing challenges of our time. As the inaugural volume in the book series, it sets the stage for future explorations into the intersections of the Earth and environmental sciences.

We hope the insights shared in this book will contribute to advancing global efforts toward safe and sustainable development.

Editorial Board

2403 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q2)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q2)

989 lượt xem
Xây dựng mô hình hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản
Hoàng Văn Long, TS. Nguyễn Tiến Định, ThS. Đỗ Phương Chi, ThS. Trần Hữu Quang, TS. Nguyễn Mạnh Cường
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta xác định giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đã có nhiều chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo, trong đó nhấn mạnh việc giảm nghèo thông tin, mong muốn góp phần đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức về giảm nghèo của cán bộ, chính quyền các cấp và người dân. Ngày 02 tháng 9 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020”. Các dự án của chương trình có đề ra hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết với người nghèo trong phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề, chế biến tiêu thụ sản phẩm. Sự phát triển sản xuất nghề đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân khu vực nông thôn. Tuy nhiên, ngoài các mặt tích cực của làng nghề thì hoạt động sản xuất của làng nghề đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường. Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, nhất là các làng nghề chế biến nông - lâm sản, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả thuộc Viện Phát triển kinh tế hợp tác thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các chuyên gia xuất bản cuốn sách “Xây dựng mô hình hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản”. Nội dung cuốn sách giới thiệu đến bạn đọc những thông tin tổng quan về tình hình ô nhiễm môi trường tại các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng; công tác quản lý, xử lý ô nhiễm môi trường; tình hình hợp tác xã tham gia quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường; hướng dẫn xây dựng hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản để nâng cao vai trò, vị trí của các hợp tác xã trong quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, nhất là các làng nghề chế biến nông - lâm sản, góp phần xây dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng trong những năm tới và giới thiệu một số công nghệ xử lý chất thải từ làng nghề chế biến nông - lâm sản, như nuôi giun trùn quế, trồng bèo tây, xử lý nước thải bằng than hoạt tính…
1690 lượt xem
Xây dựng hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Bộ Thông tin và Truyền thông
Hợp tác xã là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nước ta, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế hiện nay, hợp tác xã nông nghiệp chính là môi trường để phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả; là cầu nối, tổ chức trung gian giữa người nông dân với doanh nghiệp và nhà nước. Hơn thế nữa, vai trò, vị trí của hợp tác xã nông nghiệp càng quan trọng hơn khi vừa hỗ trợ các thành viên tham gia thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020” theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 và Quyết định số 1760/QĐ-TTg ngày 10/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ vừa thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đã đi qua gần hết chặng đường, các địa phương trên cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu to lớn, các xã đã được công nhận “xã nông thôn mới” thời gian qua đều có các hợp tác xã được tổ chức hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Các hợp tác xã này không chỉ đóng vai trò tập hợp, vận động nông dân hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế mà còn thay đổi nếp nghĩ, cách làm cho bà con nông dân, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp và đóng góp tích cực vào xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Xây dựng hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp” nhằm tuyên truyền, cung cấp những thông tin, kiến thức hữu ích cho cán bộ triển khai thực hiện nâng cao hiệu quả nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, các nhiệm vụ thông tin và truyền thông cũng như hoạt động của các hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Nội dung cuốn sách gồm 3 chương: - Chương 1: Tổng quan về phát triển hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp. - Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp. - Chương 3: Hướng dẫn xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp.
1100 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.02)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.02)

950 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228/S1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228/S1)

1146 lượt xem
Môi trường nông nghiệp và nông thôn: Hiện trạng và hướng phát triển
Bộ Thông tin và Truyền thông
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp với khoảng 65% dân số đang sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn. Cùng với sự đổi mới gắn liền với các chính sách khuyến nông, kinh tế nông thôn liên tục tăng trưởng và chuyển mạnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn, từng bước thu hẹp khoảng cách với đô thị và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên vấn đề ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí… do rác thải, hóa chất bảo vệ thực vật… đã đặt ra những thách thức lớn đối với công tác bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn và ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững. Ngày 16 tháng 8 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ thực hiện tiêu chí về Thông tin và Truyền thông. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Môi trường nông nghiệp và nông thôn: Hiện trạng và hướng phát triển” nhằm tuyên truyền, cung cấp những thông tin, kiến thức hữu ích cho cán bộ triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, các nhiệm vụ thông tin và truyền thông cũng như phát triển nông nghiệp nói chung, môi trường nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Nội dung cuốn sách gồm 5 chương: - Chương 1: Tổng quan môi trường nông nghiệp và nông thôn - Chương 2: Môi trường nước và vệ sinh môi trường ở nông thôn - Chương 3: Sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp - Chương 4: Môi trường đất và không khí - Chương 5: Hướng phát triển môi trường nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới
1432 lượt xem
Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Camphuchia (Sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia)
Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Nhân dân hai nước từng đồng cam cộng khổ, cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù chung của hai dân tộc. Sự đoàn kết tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau đã giúp nhân dân hai nước liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là tài sản vô giá của hai dân tộc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Với vai trò là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân với Campuchia, Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia luôn nhận thức sâu sắc rằng, việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và của mỗi người dân hai nước Việt Nam và Campuchia trong đó có các tổ chức hữu nghị của hai nước. Với nhận thức như vậy, những năm qua, các cấp Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia trong cả nước đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động hữu nghị đa dạng, phong phú, góp phần thiết thực vào việc củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước. Nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị giữa 2 nước cũng như nhân dịp kỉ niệm 70 năm Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (17/11/1950 - 17/11/2020), 45 năm thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia (22/01/1975- 22/01/2020) và tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Hội, Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tổ chức tuyển chọn, biên soạn và xuất bản cuốn sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia “Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia”. Các hình ảnh trong cuốn sách được sắp xếp theo bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (24/6/1967) đến ngày 7/01/1979; 2. Giai đoạn từ ngày 7/01/1979 đến khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết (năm 1991); 3. Giai đoạn từ năm 1991-2005; 4. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
1392 lượt xem
Nâng cao hiệu quả hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Bộ Thông tin và Truyền thông

Các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc đa số là các hợp tác xã có quy mô nhỏ; số lượng thành viên ít nên có vốn rất hạn chế. Thành viên của các hợp tác xã nông nghiệp ở đây đa số là người dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ học vấn không đồng đều, nên hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ gặp nhiều khó khăn, thiếu ổn định hơn các vùng khác. Do vậy giải pháp để xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp đã đặt ra những thách thức lớn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ thực hiện tiêu chí về Thông tin và Truyền thông. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với Viện Phát triển kinh tế hợp tác - Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Nâng cao hiệu quả Hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới”. Nội dung cuốn sách cung cấp những thông tin và kiến thức hữu ích cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiệm vụ thông tin tuyên truyền về tình hình tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, tăng thu nhập cho thành viên hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và góp phần xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Nội dung sách có sử dụng các khảo sát của nhóm tác giả cũng như các báo cáo của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để từ đó có con số thực tế cho việc xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách cho việc phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

1347 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q1)

834 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.13-Q2)
Nhiều tác giả

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.13-Q2)

1151 lượt xem