Ấn phẩm khác
Hoạt động truyền thông của cơ quan nhà nước
Nguyễn Thị Minh Hiền
Mục đích của luận án là hệ thống lại những nội dung, yêu cầu lý thuyết về truyền thông, truyền thông đại chúng, truyền thông tổ chức và hoạt động truyền thông của cơ quan nhà nước, tác giả nghiên cứu thực trạng hoạt động truyền thông của các cơ quan hành chính nhà nước cấp Trung ương tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các đề xuất và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động truyền thông của các cơ quan hành chính nhà nước cấp Trung ương để đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng.
1117 lượt xem
Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Camphuchia (Sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia)
Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Nhân dân hai nước từng đồng cam cộng khổ, cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù chung của hai dân tộc. Sự đoàn kết tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau đã giúp nhân dân hai nước liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là tài sản vô giá của hai dân tộc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Với vai trò là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân với Campuchia, Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia luôn nhận thức sâu sắc rằng, việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và của mỗi người dân hai nước Việt Nam và Campuchia trong đó có các tổ chức hữu nghị của hai nước. Với nhận thức như vậy, những năm qua, các cấp Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia trong cả nước đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động hữu nghị đa dạng, phong phú, góp phần thiết thực vào việc củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước. Nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị giữa 2 nước cũng như nhân dịp kỉ niệm 70 năm Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (17/11/1950 - 17/11/2020), 45 năm thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia (22/01/1975- 22/01/2020) và tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Hội, Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tổ chức tuyển chọn, biên soạn và xuất bản cuốn sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia “Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia”. Các hình ảnh trong cuốn sách được sắp xếp theo bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (24/6/1967) đến ngày 7/01/1979; 2. Giai đoạn từ ngày 7/01/1979 đến khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết (năm 1991); 3. Giai đoạn từ năm 1991-2005; 4. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
1158 lượt xem
Hướng dẫn xử lý ô nhiễm môi trường do sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật vùng trồng cây ăn quả
Bộ Thông tin và Truyền thông

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta xác định giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đã có nhiều chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo, trong đó nhấn mạnh việc giảm nghèo thông tin, mong muốn góp phần đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức về giảm nghèo của cán bộ, chính quyền các cấp và người dân. Thực hiện Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành Thông tư số 06/2022/TT-BTTTT ngày 30/6/2022 hướng dẫn thực hiện Dự án Truyền thông và giảm nghèo về thông tin thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, trong đó có nội dung phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm áp dụng trong sản xuất, những mô hình sinh kế bền vững phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái…
Hiện nay, Việt Nam đang định hướng phát triển cây ăn quả hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại, sản xuất an toàn, hữu cơ, hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị bền vững. Trong đó, chú trọng phát triển các cây trồng có lợi thế của vùng, tổ chức sản xuất hàng hóa lớn gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ nhằm tạo ra sản phẩm có thương hiệu, giá trị và sức cạnh tranh cao trên thị trường. Đặc biệt, vùng sẽ tiếp tục tập trung phát triển các cây ăn quả chủ lực có giá trị kinh tế cao thông qua các mô hình sản xuất với quy mô lớn, tập trung gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ.
Để trồng cây ăn quả phát triển bền vững, bên cạnh lợi ích trước mắt thì việc bảo vệ và cải thiện môi trường cần được chú trọng. Do đó, rất cần có các biện pháp kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường do sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật không chuẩn tại các vùng trồng cây ăn quả. Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả thuộc Viện Phát triển kinh tế hợp tác (Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) và các chuyên gia xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn xử lý ô nhiễm môi trường do sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật vùng trồng cây ăn quả” giúp cải thiện việc sử dụng không chuẩn các hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật trong trồng, chăm sóc, sơ chế, bảo quản các loại cây ăn quả và bảo vệ môi trường sinh thái trong những năm tới.
Nội dung cuốn sách giới thiệu đến bạn đọc những thông tin tổng quan về tình hình ô nhiễm môi trường do sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật tại vùng trồng cây ăn quả, tại hợp tác xác trồng cây ăn quả. Thông qua thực trạng đó, các chuyên gia đã đưa ra các giải pháp tích cực nhằm kiểm soát và xử lý ô nhiễm môi trường do sử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật tại các hợp tác xã trồng cây ăn quả, hướng dẫn xây dựng hợp tác xã sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị bền vững, bảo vệ môi trường và hướng dẫn xử lý nước thải tại làng nghề chế biến nông sản.

967 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa
TS. Nguyễn Phương Liên
Con người từ buổi sơ khai đã sinh ra và tồn tại ở khắp nơi trên Trái đất, để có thể sinh tồn, theo một cách rất bản năng, họ kết lại thành bầy đàn để tự vệ cũng như lao động sản xuất. Từ sự tự phát bản năng ấy, các nhóm cùng tồn tại trên một phạm vi lãnh thổ, cùng lao động, tích lũy, làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Song hành cùng quá trình đó chính là sự tự ý thức về chủ quyền, quyền lực ngày càng rõ ràng hơn. Quá trình tất yếu tiếp theo chính là nhu cầu về sự mở rộng phạm vi sống, chinh phục những miền đất mới và làm giàu tích lũy. Sự chia cắt, sáp nhập, di dời, lưu vong đã tạo ra những biến cố liên tục dẫn đến những thay đổi tất yếu và thường xuyên trong cộng đồng người. Để có thể vượt qua các mâu thuẫn nảy sinh đó, con người chọn cách gắn kết chặt chẽ lại với nhau và phân biệt nhau không chỉ trên lãnh thổ. Điều này nghĩa là gì? Văn hóa được tạo ra không phải sự tách biệt, riêng biệt, mà nó là sản phẩm của sự sáng tạo trong quá trình phát triển và văn hóa cũng chính là một dạng “cương vực, lãnh thổ” bởi nó mang đặc trưng dân tộc, hay căn tính dân tộc. Căn tính dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội, được xác lập trên cơ sở những đặc điểm của hiện hữu khách quan ban đầu khi cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình cộng đồng đó vận động, phát triển. Căn tính của một dân tộc được hợp nhất bởi căn tính của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hóa, dung hòa và thích nghi để cùng tồn tại, do đó, nó đại diện cho một nhóm người trong một phạm vi không gian văn hóa nhất định. Như vậy, văn hóa chính là một mặt biểu hiện quan trọng của căn tính dân tộc. Đi tìm bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc (national identity) hay tính dân tộc (nationality) thực chất đều là đi tìm cái riêng, cái đặc thù về văn hóa của dân tộc ấy. Điều này có thể hiểu là, nếu lãnh thổ là cơ sở đầu tiên để xác định một dân tộc thì nền tảng tiếp theo để làm nên dân tộc tính của một cộng đồng người chính là những tập quán và tính cách được hình thành trong một thời gian dài chung sống với những điều kiện tự nhiên xã hội nhất định. Mỗi một cá nhân khi sinh ra sẽ mang những căn tính riêng thuộc về mặt sẵn có, tuy nhiên, mặt khác nó tiếp tục hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên và sinh tồn. Căn tính cá nhân đó ảnh hưởng từ phạm vi nhỏ là cộng đồng gia đình, đến phạm vi lớn là cộng đồng dân tộc. Hiếm có dân tộc nào cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn thành phần tộc người, phạm vi lãnh thổ, hình thái xã hội như buổi sơ khai con người tìm đến với nhau và quyết định chia sẻ môi sinh, tài nguyên thiên nhiên và quyền lợi tập thể. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu trong bài viết “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 1/1986 đã khẳng định rằng: “Cho nên, tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, nếu không muốn là suy đoán chủ quan, thay thế kết luận khoa học bằng những mục tiêu tuyên truyền, như khi kháng chiến thì nói đặc tính của dân tộc ta là yêu nước, bất khuất, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì là cần cù lao động, khi gặp khó khăn thì lại là lạc quan yêu đời… thì chúng ta không nên hình dung đó là công việc nhận xét tổng hợp các thành tựu về tư tưởng, văn học, hội họa, âm nhạc, kiến trúc,… mà phải đánh giá đầy đủ bản lĩnh sáng tạo của dân tộc”. Điều mà nhà nghiên cứu muốn chỉ ra ở đây là vốn văn hóa dân tộc không được xác lập ngay vào thời kì định hình mà là cái được ổn định dần qua thời gian cho đến trước thời cận hiện đại. Bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc của một đất nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi và ổn định trước công cuộc mở cửa và hội nhập như vũ bão của thời đại toàn cầu hóa. Bên cạnh chúng ta, người Khmer với quốc gia mang tên Campuchia hiện nay cũng đang từng bước vững chắc phục hưng nền văn hóa trong văn minh lâu đời của chính mình như sức mạnh để vươn tới vị trí cao hơn sau những khủng hoảng về chính trị đã cách xa gần nửa thế kỷ.
958 lượt xem
Định Hoá - Viên ngọc xanh của Thái Nguyên
Nhiều tác giả

Định Hoá - Viên ngọc xanh của Thái Nguyên

6422 lượt xem
ADVANCES IN THE EARTH, MINING  AND ENVIRONMENTAL SCIENCES FOR SAFE  AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT  Volume 1: Advanced Technologies and Artificial Intelligence in the Earth and Environmental Sciences
VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, The State Council for Professorship, Interdisciplinary Professor Council of the Earth and Mining Sciences

Foreword

In an era where technology and artificial intelligence (AI) are rapidly reshaping scientific disciplines, the fields of the Earth and environmental sciences, and geotechnical engineering are experiencing unprecedented advancements. This book, Advanced Technologies and Artificial Intelligence in the Earth and Environmental Sciences, marks the inaugural volume in the series Advances in the Earth, Mining and Environmental Sciences for Safe and Sustainable Development. It features a selection of high-quality research papers presented at the GeoAI2024 International Conference.

This publication represents the collaborative efforts of VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, the Interdisciplinary Professor Council of the Earth and Mining Sciences, and a broad network of esteemed institutions and organizations, including the Vietnam Union of Geological Sciences, Vietnam Association of Engineering Geology and Environment, Institute of Geological Sciences - Vietnam Academy of Science and Technology, Norwegian Geotechnical Institute, Vietnam Atomic Energy Institute, Hanoi University of Mining and Geology, and Dong Nai Technology University.

The support and cooperation of these institutions have been instrumental in bringing this volume to fruition.

This book represents a focused exploration of the transformative role of technology and AI in addressing critical challenges in sustainability and environmental resilience. The content is organized into three thematic sections: Part 1: Earth Technology and Geotechnical Engineering This section explores innovative methods for addressing geotechnical and geological challenges with a focus on sustainability, resilience, and safety. The studies of this part demonstrate how modern technologies and engineering can advance infrastructural development while minimizing environmental risks.

Part 2: Environment and Recycled Materials This section addresses environmental challenges through creative approaches, including pollution control, resource recovery, and sustainable materials. The research in this part highlights innovative ways to restore and protect the environment, contributing to a more sustainable future.

Part 3: Digital Transformation and GeoAI The final section demonstrates the transformative power of AI, machine learning, and digital technologies in the Earth and environmental sciences. Contributions cover a wide spectrum of applications, including IoT-based environmental monitoring and AI-assisted disaster detection. This section exemplifies the role of GeoAI in reshaping our understanding of natural processes and improving decision-making for sustainable development.

We express our sincere gratitude to the authors, researchers, and practitioners whose works have shaped this volume. Special thanks go to the GeoAI2024 International Conference, which provided a vibrant platform for collaboration, innovation, and knowledge exchange. The collective efforts of contributors and organizers have ensured that this book captures the forefront of technological innovation in the Earth and environmental sciences.

This volume aims to inspire researchers, practitioners, and policymakers, encouraging them to explore and implement advanced technologies and AI in tackling some of the most pressing challenges of our time. As the inaugural volume in the book series, it sets the stage for future explorations into the intersections of the Earth and environmental sciences.

We hope the insights shared in this book will contribute to advancing global efforts toward safe and sustainable development.

Editorial Board

1763 lượt xem
Tuyển tập bài viết: Cán bộ công chức, viên chức và người lao động cơ quan Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với khát vọng cống hiến
Công đoàn Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn

Nội dung cuốn sách là tuyển tập các bài viết hay của của Cán bộ công chức, viên chức và người lao động cơ quan Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về chủ đề khát vọng cống hiến.

1601 lượt xem
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia (1930 - 2020)
PGS TS Lê Đình Chỉnh
Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi cùng chung sống lâu đời trên vùng bán đảo có nhiều điểm tương đồng về các yếu tố địa - chính trị, địa - lịch sử, địa - kinh tế và địa - văn hóa. Trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh giành độc lập, tự do, hai dân tộc Việt Nam và Campuchia luôn nương tựa vào nhau, cùng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh bên nhau vì sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc và cả hai dân tộc. Trong cách mạng dân tộc giai đoạn 1945-1975, mối quan hệ đoàn kết truyền thống Việt Nam - Campuchia tiếp tục được phát triển và nâng lên một bước mới, từng bước vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cùng đấu tranh chống xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) của Việt Nam; Cách mạng Campuchia toàn thắng ngày 17/4/1975; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975 là kết quả của quá trình vận động cách mạng, đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia trong cuộc đấu tranh cùng chống kẻ thù chung vì mục tiêu chung là giành tự do và độc lập cho cả hai dân tộc. Từ năm 1975 đến năm 1979, tập đoàn phản động Khmer đỏ do Pol Pot đứng đầu đã thực hiện chế độ diệt chủng ở Campuchia giết hại hàng triệu người dân vô tội. Đồng thời tập đoàn diệt chủng này còn cho quân tiến hành các cuộc tấn công xâm lược Việt Nam, tàn phá nhiều làng mạc, giết hại nhiều thường dân tại các tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của mình, Việt Nam đã thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ, nhanh chóng đập tan các cuộc xâm lược của tập đoàn diệt chủng Pol Pot, quét sạch chúng ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, theo yêu cầu của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Khi đề cập đến vấn đề này, Thủ tướng Hun Sen khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có Tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu Tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”. Nhìn lại chặng đường gần thế kỷ (1930 - 2020), lịch sử đã chứng kiến sự gắn bó keo sơn, mật thiết giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước. Mối quan hệ truyền thống đoàn kết và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới, đó chính là tài sản vô giá mà mỗi người dân ở hai nước hôm nay cần tiếp tục giữ gìn, vun đắp và bảo vệ. Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử quan hệ Việt Nam - Campuchia, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả do PGS, TS Lê Đình Chỉnh làm chủ biên biên soạn, xuất bản cuốn sách: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia (1930 - 2020). Cuốn sách không chỉ cung cấp cho người đọc những hiểu biết một cách hệ thống về trang sử hào hùng của nhân dân hai nước trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn giúp người đọc hiểu được quá trình hồi sinh, xây dựng và phát triển của nhân dân Campuchia với sự giúp đỡ có hiệu quả của Việt Nam, sau khi thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot.
2631 lượt xem
Natural language processing - Approaches to natural language processing in multilingual context (Monograph)
The University of Danang, University of Technology and Education, Võ Trung Hùng

The book's content is organized into 7 chapters with the following contents:

- Chapter 1: Natural language processing.

- Chapter 2: Multilingualizing software based on automata.

- Chapter 3: N-grams and language recognition.

- Chapter 4: Vector space model and applications.

- Chapter 5: Dendrogram and applications.

- Chapter 6: UNL and multilingual automatic translation.

- Chapter 7: Deep learning and fake news detection.

90 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.01/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.01/Q1)

630 lượt xem
Cẩm nang chuyển đổi số
Bộ Thông tin và Truyền thông

Cuốn Cẩm nang này được xây dựng trên cơ sở các bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, thực tiễn của những người đã trăn trở, đã trực tiếp tham gia hoạch định cơ chế, chính sách, chiến lược và thực thi chuyển đổi số, với sự chung tay, giúp sức, kế thừa tri thức của nhiều chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nhân Việt Nam. Lần tái bản này đã tiếp thu các ý kiến phản hồi, góp ý để chỉnh sửa, cập nhật. Đặc biệt, lần tái bản này bổ sung thêm nhiều câu chuyện chuyển đổi số ở Việt Nam, trên thế giới và 365 câu trích dẫn về chuyển đổi số.

1431 lượt xem
Behind the myth of ‘Business Partnerships’ vulnerable app-based drivers in urgent need of legal protection in Vietnam
Do Hai Ha Et al., Friedrich-Ebert-Stiftung

This report highlights the precarious working conditions and vulnerability of app-based motorbike drivers in Viet Nam and their linkage with an outdated labour law framework. It not only pinpoints the problems, but also considers solutions to enhancing legal protection for platform drivers, taking into consideration regulatory innovations around the world and the unique context of Viet Nam. Data collection was undertaken between 2019 and 2023. This consisted of a quantitative survey of workers from four major ride-hailing and delivery platforms, conducted in Ho Chi Minh City (HCMC) between February and March 2021. From May 2019 to August 2023, the researchers also interviewed and re-interviewed  50 workers and 15 other actors, including company managers, union cadres, state officials, and labour law experts. Moreover, data for this research was drawn from observations made by the researchers and surveyors during their conversations with workers and participation in workers’ Facebook groups. Finally, the research analysed numerous documents including-among other thingsplatforms’ contracts, policies, and documents; statutory laws; administrative regulations; court judgments; government papers and reports; academic works; and newspaper articles. These documents were collected until October 2023. The authors would like to express their deep appreciation to the Friedrich-Ebert-Stiftung (FES) for funding this major project. We are particularly indebted to Axel Blaschke, Timo Rinke, Nguyen Thi Ha Giang, Nguyen Thanh Thuy, and Pham Hung Son for their patience, support, and valuable advice throughout the project. Our gratitude also goes to the people involved in data collection, especially the interviewees and surveyors. We appreciate Dr. Do Quynh Chi, Dr. Pham Sy Thanh, and participants in the webinar on Labour Research in Digital Platforms in Viet Nam organised by the Southern Institute of Social Sciences, FES,  and the Viet Nam Labour Research Network in October 2021 for their insightful feedback on our early work. Last, but not least, special thanks go to Laurence Newman and Simon Drought for their proofreading. All errors are ours. 

205 lượt xem
Thông tin và Truyền thông số Tết Xuân Ất Tỵ 2025
Sở Thông tin và Truyền thông Phú Thọ

Nội dung ấn phẩm giới thiệu các hoạt động và những sự kiện nổi bật của ngành Thông tin và Truyền thông Phú Thọ trong năm 2024

502 lượt xem
IWAMSN 2024 - The 11th International Workshop on Advanced Materials Science and Nanotechnology Proceedings
Vietnam Academy of Science and Technology

TOPICS OF THE WORKSHOP

1. Materials for Electronics and Photonics (code: MEP)

2. Nanostructured Materials and Devices (code: NMD)

3. Materials and Technologies for Green Energy and Decarbonization (code: MED)

4. Materials and Nanotechnologies for Life Sciences (code: MLS)

5. Materials and Ecological Technologies for Environment (code: MEE)

6. Advanced Engineering Materials (code: AEM)

7. Materials Data and Machine Learning (code: MDM)

2164 lượt xem
Kỷ yếu hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới
Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội Xuất bản Việt Nam

Nội dung cuốn sách gồm 29 báo cáo tham luận tại Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức.

685 lượt xem
Báo cáo tình hình ứng dụng và phát triển chữ ký số tại Việt Nam năm 2024
Bộ Thông tin và Truyền thông , Trung tâm Chứng thực điện tử Quốc gia

Báo cáo tình hình ứng dụng và phát triển chữ ký số tại Việt Nam năm 2024 cung cấp bức tranh toàn cảnh về tình hình ứng dụng chữ ký số trong các hoạt động của các bộ, ngành, doanh nghiệp dựa trên cơ sở thông tin và số liệu cập nhật của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Ban Cơ yếu Chính phủ; Tổng cục Thuế; Tổng cục Hải quan; Bảo hiểm Xã hội Việt Nam; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước; Kho bạc Nhà nước; Cục Quản lý đấu thầu - Bộ Kế hoạch và Đầu tư; các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng của cơ quan, tổ chức.

196 lượt xem