Ấn phẩm khác
Lò hơi trong sản xuất điện và trong công nghiệp -  Tập 1: Tổng quan về lò hơi
PGS.TS Trương Duy Nghĩa

Nội dung cuốn sách này được dùng làm sách giáo khoa cho sinh viên các ngành Kỹ thuật nhiệt khi học môn học lò hơi, khi thực hiện các tính toán, thiết kế về lò hơi, đồng thời cũng là sách tham khảo cho các kỹ sư công tác về lò hơi, lò đốt. Nội dung trình bày những vấn đề lý thuyết và kỹ thuật cơ bản nhất về lò hơi, và cũng là những kiến thức chung cho cả lò hơi công nghiệp và lò hơi điện, để cho các kỹ sư tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, nhất là các kỹ sư không tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, đang công tác về lò hơi và lò đốt có thể tự học thêm để hiểu sâu các quá trình xảy ra trong lò. Một số kiến thức, một số chỉ tiêu thực tế rút ra từ kinh nghiệm vận hành, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng sách. Cuối sách có các bài đọc thêm, ngắn gọn, nhằm làm rõ hơn, mở rộng hơn các nội dung trình bày trong chương, được hiểu như là các nội dung tham khảo.

1446 lượt xem
Kỷ yếu hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới
Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội Xuất bản Việt Nam

Nội dung cuốn sách gồm 29 báo cáo tham luận tại Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức.

1747 lượt xem
Hợp tác xã cung ứng thực phẩm và xây dựng mô hình hợp tác xã cung ứng rau an toàn
Bộ Thông tin và Truyền thông
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội XII tiếp tục khẳng định: Phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây dựng nông thôn mới là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể. Ngày 11/7/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1760/QĐ-TTg điều chỉnh bổ sung Quyết định số 1600/QĐ-TTg “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, theo đó, một số giải pháp thực hiện chương trình là xây mới hệ thống chợ, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn theo quy định, hạ tầng các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản, phát triển sản xuất và dịch vụ, nâng cao chất lượng các tiêu chí đã đạt chuẩn, hỗ trợ cho xây dựng các trung tâm bán hàng hiện đại ở cấp xã, hỗ trợ phát triển hợp tác xã, hỗ trợ thực hiện Đề án thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới tại vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016-2020. Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, các hợp tác xã đã cho ta thấy được vai trò hết sức quan trọng của mình, không chỉ nâng cao thu nhập cho nông dân mà còn góp phần làm thay đổi căn bản diện mạo nông thôn thời kỳ hội nhập. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã, phát triển hợp tác xã sẽ là một yếu tố và động lực cơ bản góp phần tạo nền tảng thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới. Ðặc biệt, trong những năm gần đây, với yêu cầu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế hợp tác xã đã có bước phát triển mới về số lượng, hiệu quả; hoạt động được nâng cao, với đủ các loại hình dịch vụ thúc đẩy sản xuất kinh doanh ở khu vực nông thôn phát triển. Nhằm cung cấp những thông tin, kiến thức hữu ích cho các địa phương trong việc tổ chức xây dựng hợp tác xã cung ứng thực phẩm và mô hình hợp tác xã cung ứng rau an toàn, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp cùng các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các chuyên gia trong Ngành biên soạn, xuất bản cuốn sách “Hợp tác xã cung ứng thực phẩm và xây dựng mô hình hợp tác xã cung ứng rau an toàn”. Nội dung cuốn sách giới thiệu các khái niệm cơ bản về thực phẩm, thực phẩm sạch, rau an toàn... và hợp tác xã cung ứng thực phẩm, giới thiệu các bước xây dựng hợp tác xã cung ứng rau an toàn. Đồng thời, cuốn sách cũng giới thiệu một số mô hình hợp tác xã cung ứng rau an toàn thành công trong thời gian qua.
1236 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.13-Q2)
Nhiều tác giả

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.13-Q2)

1158 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa
TS. Nguyễn Phương Liên
Con người từ buổi sơ khai đã sinh ra và tồn tại ở khắp nơi trên Trái đất, để có thể sinh tồn, theo một cách rất bản năng, họ kết lại thành bầy đàn để tự vệ cũng như lao động sản xuất. Từ sự tự phát bản năng ấy, các nhóm cùng tồn tại trên một phạm vi lãnh thổ, cùng lao động, tích lũy, làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Song hành cùng quá trình đó chính là sự tự ý thức về chủ quyền, quyền lực ngày càng rõ ràng hơn. Quá trình tất yếu tiếp theo chính là nhu cầu về sự mở rộng phạm vi sống, chinh phục những miền đất mới và làm giàu tích lũy. Sự chia cắt, sáp nhập, di dời, lưu vong đã tạo ra những biến cố liên tục dẫn đến những thay đổi tất yếu và thường xuyên trong cộng đồng người. Để có thể vượt qua các mâu thuẫn nảy sinh đó, con người chọn cách gắn kết chặt chẽ lại với nhau và phân biệt nhau không chỉ trên lãnh thổ. Điều này nghĩa là gì? Văn hóa được tạo ra không phải sự tách biệt, riêng biệt, mà nó là sản phẩm của sự sáng tạo trong quá trình phát triển và văn hóa cũng chính là một dạng “cương vực, lãnh thổ” bởi nó mang đặc trưng dân tộc, hay căn tính dân tộc. Căn tính dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội, được xác lập trên cơ sở những đặc điểm của hiện hữu khách quan ban đầu khi cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình cộng đồng đó vận động, phát triển. Căn tính của một dân tộc được hợp nhất bởi căn tính của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hóa, dung hòa và thích nghi để cùng tồn tại, do đó, nó đại diện cho một nhóm người trong một phạm vi không gian văn hóa nhất định. Như vậy, văn hóa chính là một mặt biểu hiện quan trọng của căn tính dân tộc. Đi tìm bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc (national identity) hay tính dân tộc (nationality) thực chất đều là đi tìm cái riêng, cái đặc thù về văn hóa của dân tộc ấy. Điều này có thể hiểu là, nếu lãnh thổ là cơ sở đầu tiên để xác định một dân tộc thì nền tảng tiếp theo để làm nên dân tộc tính của một cộng đồng người chính là những tập quán và tính cách được hình thành trong một thời gian dài chung sống với những điều kiện tự nhiên xã hội nhất định. Mỗi một cá nhân khi sinh ra sẽ mang những căn tính riêng thuộc về mặt sẵn có, tuy nhiên, mặt khác nó tiếp tục hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên và sinh tồn. Căn tính cá nhân đó ảnh hưởng từ phạm vi nhỏ là cộng đồng gia đình, đến phạm vi lớn là cộng đồng dân tộc. Hiếm có dân tộc nào cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn thành phần tộc người, phạm vi lãnh thổ, hình thái xã hội như buổi sơ khai con người tìm đến với nhau và quyết định chia sẻ môi sinh, tài nguyên thiên nhiên và quyền lợi tập thể. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu trong bài viết “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 1/1986 đã khẳng định rằng: “Cho nên, tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, nếu không muốn là suy đoán chủ quan, thay thế kết luận khoa học bằng những mục tiêu tuyên truyền, như khi kháng chiến thì nói đặc tính của dân tộc ta là yêu nước, bất khuất, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì là cần cù lao động, khi gặp khó khăn thì lại là lạc quan yêu đời… thì chúng ta không nên hình dung đó là công việc nhận xét tổng hợp các thành tựu về tư tưởng, văn học, hội họa, âm nhạc, kiến trúc,… mà phải đánh giá đầy đủ bản lĩnh sáng tạo của dân tộc”. Điều mà nhà nghiên cứu muốn chỉ ra ở đây là vốn văn hóa dân tộc không được xác lập ngay vào thời kì định hình mà là cái được ổn định dần qua thời gian cho đến trước thời cận hiện đại. Bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc của một đất nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi và ổn định trước công cuộc mở cửa và hội nhập như vũ bão của thời đại toàn cầu hóa. Bên cạnh chúng ta, người Khmer với quốc gia mang tên Campuchia hiện nay cũng đang từng bước vững chắc phục hưng nền văn hóa trong văn minh lâu đời của chính mình như sức mạnh để vươn tới vị trí cao hơn sau những khủng hoảng về chính trị đã cách xa gần nửa thế kỷ.
1387 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Chung một dòng sông
Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi, cùng uống chung dòng nước Mê Kông, cùng chung chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng kiên cường, được xây dựng và củng cố trên nền tảng của tình đoàn kết hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, gắn bó mật thiết giữa hai dân tộc. Sự đoàn kết tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau đã giúp nhân dân hai nước liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Góp phần quyết định làm nên chiến thắng đó là sự hy sinh xương máu, mất mát vô cùng lớn lao, không gì sánh nổi của lực lượng quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia chiến thắng và ngăn chặn sự quay trở lại của chế độ diệt chủng, từng bước thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc trong giai đoạn 1979-1989. Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là tài sản vô giá của hai dân tộc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Vì vậy, nhân dân và các thế hệ trẻ hai nước sẽ luôn trân trọng, giữ gìn và tiếp tục xây đắp để mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển vì lợi ích của nhân dân hai nước hiện nay và mai sau”. Với vai trò là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân với Campuchia, nhằm góp phần tuyên truyền giáo dục cho nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ về mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tuyển chọn, biên soạn và xuất bản cuốn sách “Việt Nam - Campuchia chung một dòng sông”. Nội dung cuốn sách bao gồm những bài văn, thơ, nhạc về tình hữu nghị gắn bó keo sơn, chan chứa nghĩa tình giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.
1808 lượt xem
Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Camphuchia (Sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia)
Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Trung ương hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Nhân dân hai nước từng đồng cam cộng khổ, cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù chung của hai dân tộc. Sự đoàn kết tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau đã giúp nhân dân hai nước liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Có thể khẳng định rằng, mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là tài sản vô giá của hai dân tộc, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Với vai trò là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại nhân dân với Campuchia, Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia luôn nhận thức sâu sắc rằng, việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể và của mỗi người dân hai nước Việt Nam và Campuchia trong đó có các tổ chức hữu nghị của hai nước. Với nhận thức như vậy, những năm qua, các cấp Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia trong cả nước đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động hữu nghị đa dạng, phong phú, góp phần thiết thực vào việc củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa nhân dân hai nước. Nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ hữu nghị giữa 2 nước cũng như nhân dịp kỉ niệm 70 năm Ngày truyền thống Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (17/11/1950 - 17/11/2020), 45 năm thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia (22/01/1975- 22/01/2020) và tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Hội, Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tổ chức tuyển chọn, biên soạn và xuất bản cuốn sách ảnh song ngữ Việt Nam - Campuchia “Quá trình xây dựng và phát triển tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia”. Các hình ảnh trong cuốn sách được sắp xếp theo bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (24/6/1967) đến ngày 7/01/1979; 2. Giai đoạn từ ngày 7/01/1979 đến khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết (năm 1991); 3. Giai đoạn từ năm 1991-2005; 4. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
1393 lượt xem
Thiên tai từ biển và các giải pháp ứng phó trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Bộ Thông tin và Truyền thông
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là nơi chịu ảnh hưởng của một trong năm ổ bão lớn nhất thế giới thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với bờ biển dài 3.260 km, trong hơn 65 năm qua, thiên tai từ biển đã xảy ra ở hầu khắp các vùng trên cả nước, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội và tác động xấu đến môi trường. Trong những năm gần đây, trung bình hàng năm có tới 750 người chết và mất tích, thiệt hại về tài sản ước tính tương đương khoảng 1 - 1,5% GDP. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu toàn cầu đã và đang làm thiên tai ở Việt Nam có xu hướng ngày càng phức tạp, so với những thập kỷ trước về cả quy mô, cường độ cũng như chu kỳ lặp lại kèm theo những đột biến khó lường. Tiềm ẩn nhiều loại thiên tai từ biển như: bão, áp thấp nhiệt đới gây lũ lụt, nước biển dâng, triều cường, sạt lở, xói lở bờ biển,... Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu, tiềm ẩn rủi ro thiên tai cao. Ngày 16/11/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020; ngày 19/6/2013, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật phòng, chống thiên tai (Luật số 33/2013/QH13), trong đó đã dành riêng một điều (Điều 21) về việc phòng, chống thiên tai nhất là các thiên tai có nguồn gốc từ biển. Ngày 02/9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020”, trong đó, Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ truyền thông về giảm nghèo thông tin. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các chuyên gia biên soạn và xuất bản cuốn sách “Thiên tai từ biển và các giải pháp ứng phó trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam” nhằm cung cấp những kiến thức cần thiết cho người dân nói chung và người dân vùng biển, đảo nói riêng để họ chủ động hơn trong việc phòng, chống và giảm thiểu rủi ro do thiên tai từ biển gây ra. Nội dung cuốn sách gồm 5 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thiên tai ở Việt Nam Chương 2: Các loại thiên tai từ biển ở Việt Nam Chương 3: Kỹ năng phòng, chống thiên tai từ biển Chương 4: Đánh giá và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng Chương 5: Hướng dẫn tập huấn phòng, chống thiên tai từ biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu ở Việt Nam.
1694 lượt xem
Cẩm nang phòng, chống COVID-19 trong đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động
TS.BS. Nguyễn Việt Đồng

Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, việc trang bị những kiến thức cơ bản để các cơ quan, doanh nghiệp, người lao động đảm bảo sức khỏe phòng tránh bị lây nhiễm là điều hết sức cần thiết. Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông; nhằm đẩy mạnh tuyên truyền về phòng, chống dịch COVID-19 đến từng người lao động, đóng góp thiết thực và công cuộc phòng, chống dịch bệnh của cả nước; Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các chuyên gia đầu ngành trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 biên soạn, xuất bản cuốn sách "Cẩm nang phòng, chống COVID-19 trong đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động" (Sách in và Sách điện tử)

1267 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.15)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.15)

766 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.14)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.14)

588 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q1)

770 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.10/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.10/Q1)

866 lượt xem
Natural language processing - Approaches to natural language processing in multilingual context (Monograph)
The University of Danang, University of Technology and Education, Võ Trung Hùng

The book's content is organized into 7 chapters with the following contents:

- Chapter 1: Natural language processing.

- Chapter 2: Multilingualizing software based on automata.

- Chapter 3: N-grams and language recognition.

- Chapter 4: Vector space model and applications.

- Chapter 5: Dendrogram and applications.

- Chapter 6: UNL and multilingual automatic translation.

- Chapter 7: Deep learning and fake news detection.

636 lượt xem
Đẩy mạnh đánh bắt hải sản trên địa bàn Duyên hải Nam Trung Bộ theo hướng bền vững
TS. Đào Hữu Hòa

Biển Duyên hải Nam Trung bộ (DHNTB) trải dài từ TP. Đà Nẵng đến Bình Thuận với chiều dài trên 1.000 km, trên biển có nhiều đảo lớn như: Đảo Phú Quý, Lý Sơn, Cù Lao Chàm và các quần đảo là: Hoàng Sa, Trường Sa. Sản lượng hải sản có thể khai thác ở mức bền vững của toàn vùng vào khoảng 350.000 - 400.000 tấn/năm, trong đó có nhiều loại hải sản quý hiếm như tôm hùm, bào ngư, cá ngừ đại dương… Trong những năm qua, hoạt động đánh bắt hải sản trên địa bàn khu vực DHNTB đã có những bước phát triển nhanh chóng. Sản lượng đánh bắt năm 2011 của toàn Vùng đạt khoảng 540 nghìn tấn, chiếm 31,5% so với cả nước. Thực tế cho thấy, ngành đánh bắt hải sản ở DHNTB, ngoài việc mang lại hiệu quả kinh tế cao, nó còn mang lại hiệu quả tổng hợp trên nhiều mặt kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cho các địa phương trong vùng. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc đánh bắt hải sản ở DHNTB vẫn còn rất nhiều bất cập cần giải quyết như: - Số phương tiện đánh bắt tăng quá nhanh nhưng đa số vẫn là vỏ gỗ, với động cơ chủ yếu là máy cũ tân trang. - Năng lực đánh bắt tăng nhanh trong khi trữ lượng hải sản không tăng đã làm cho năng suất đánh bắt giảm xuống nhanh chóng; - Tình trạng đánh bắt gần bờ bằng các phương pháp đánh bắt có tính chất tận diệt như kích điện, đánh thuốc nổ, “cào bay”... vẫn còn tồn tại, thậm chí có nơi còn gia tăng; - Các rủi ro về an toàn tính mạng và tài sản của ngư dân do thiên tai, địch họa đang có xu hướng tăng và ngày càng diễn biến phức tạp nhưng chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục; - Việc quản lý chi phí đầu vào, đầu ra cho ngành đánh bắt hải sản vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ, các cấp chính quyền đến nay vẫn chưa có các giải pháp tổng thể để giải quyết vấn đề này; - Chưa có được một giải pháp toàn diện để giải quyết vấn đề quan hệ giữa phát triển đánh bắt hải sản và sử dụng nguồn lợi chung công bằng trong cộng đồng dân cư… Để tiếp tục phát triển hoạt động đánh bắt hải sản vùng DHNTB trong tương lai, đề tài nghiên cứu về “Đẩy mạnh đánh bắt hải sản trên địa bàn Duyên hải Nam Trung Bộ theo hướng bền vững” của TS. Đào Hữu Hòa đã được xuất bản thành sách. Đề tài đã đánh giá được thực trạng, chỉ ra được nguyên nhân để có các biện pháp phù hợp nhằm khắc phục các hạn chế trên, đảm bảo cho việc đẩy mạnh hoạt động đánh bắt hải sản luôn gắn liền với yêu cầu phát triển bền vững tại mỗi địa phương. Đó cũng chính là nội dung của cuốn sách này. Hy vọng các nhà quản lý, các chuyên gia nghiên cứu sẽ tìm thấy nhiều tư liệu giá trị trong cuốn sách này.

1009 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.01/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.01/Q1)

1114 lượt xem