Ấn phẩm khác
Đăng ký và thống kê hộ tịch bảo đảm quyền con người vì mục tiêu phát triển bên vững
TS. Nguyễn Công Khanh, ThS. Lò Thùy Linh

Đăng ký và Thống kê hộ tịch là hoạt động thường xuyên, liên tục của mỗi quốc gia. Thông qua đăng ký hộ tịch Nhà nước bảo đảm các quyền dân sự cơ bản của cá nhân, đồng thời theo dõi, quản lý được những thay đổi về thông tin công dân và tình hình biến động thực tế của dân cư. Qua đó phục vụ xây dựng, hoạch định, phát triển các chính sách kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong vòng 8 năm qua, kể từ khi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Nhất của khu vực châu Á - Thái Bình Dương về đăng ký và thống kê hộ tịch (CRVS - tháng 11/2014), tình hình đăng ký và thống kê hộ tịch ở các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương đã có nhiều khởi sắc. Công tác đăng ký hộ tịch đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của tất cả các Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương trong khu vực. Nhận thức của các tầng lớp nhân dân, dân cư về ý nghĩa, vai trò của đăng ký hộ tịch đã được nâng lên rõ rệt. Hệ thống đăng ký hộ tịch đối với những nhóm dân cư yếu thế ở các khu vực khác nhau của châu Á - Thái Bình Dương đã được cải thiện đáng kể. Với định hướng đăng ký hộ tịch phổ cập, các quốc gia đang phấn đấu đến năm 2025 tất cả những người dân trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều được đăng ký và cấp giấy tờ hộ tịch, được định danh pháp lý đầy đủ theo phương châm “Không ai bị bỏ lại phía sau”.
Tháng 11/2021 đã diễn ra Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Hai về đăng ký, thống kê hộ tịch của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá một cách tổng thể về những kết quả đạt được trong nửa đầu của thập niên CRVS, đồng thời đưa ra quyết tâm chính trị cao cả để tiếp tục thúc đẩy/tăng tốc đăng ký hộ tịch bảo đảm đạt được các mục tiêu quan trọng của nửa sau thập niên CRVS khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhằm “xây dựng một tương lai bền vững hơn với đăng ký và thống kê hộ tịch toàn diện”.
Trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các tài liệu được đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng lần thứ Hai khu vực châu Á - Thái Bình Dương về CRVS (tháng 11/2021), Tiến sĩ Nguyễn Công Khanh - nguyên Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và Thạc sĩ Lò Thùy Linh, Phó Trưởng phòng Phòng quản lý hộ tịch, Cục hộ tịch, quốc tịch, chứng thực của Bộ Tư pháp đã biên soạn cuốn sách “Đăng ký và Thống kê hộ tịch: Bảo đảm quyền con người vì Mục tiêu Phát triển Bền vững”. Cuốn sách cung cấp
cho người đọc cái nhìn tổng thể, bao quát nhất về kết quả đăng ký, thống kê hộ tịch thời gian qua ở các quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có các nước ASEAN và Việt Nam. Nội dung cuốn sách gồm 9 chương, đề cập toàn diện về vai trò, ý nghĩa của đăng ký, thống kê hộ tịch trong việc bảo đảm quyền con người vì Mục tiêu Phát triển Bền vững theo Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc; về lợi ích của việc khai thác, sử dụng dữ liệu hộ tịch để ra quyết định ở các cấp chính quyền; về tầm quan trọng của đăng ký hộ tịch đối với việc thiết lập định danh pháp lý của mỗi cá nhân; về trách nhiệm bảo mật dữ liệu hộ tịch, bí mật đời tư cá nhân của các quốc gia trong đăng ký, thống kê hộ tịch v.v…

275 lượt xem
IWAMSN 2024 - The 11th International Workshop on Advanced Materials Science and Nanotechnology Proceedings
Vietnam Academy of Science and Technology

TOPICS OF THE WORKSHOP

1. Materials for Electronics and Photonics (code: MEP)

2. Nanostructured Materials and Devices (code: NMD)

3. Materials and Technologies for Green Energy and Decarbonization (code: MED)

4. Materials and Nanotechnologies for Life Sciences (code: MLS)

5. Materials and Ecological Technologies for Environment (code: MEE)

6. Advanced Engineering Materials (code: AEM)

7. Materials Data and Machine Learning (code: MDM)

1519 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa
TS. Nguyễn Phương Liên
Con người từ buổi sơ khai đã sinh ra và tồn tại ở khắp nơi trên Trái đất, để có thể sinh tồn, theo một cách rất bản năng, họ kết lại thành bầy đàn để tự vệ cũng như lao động sản xuất. Từ sự tự phát bản năng ấy, các nhóm cùng tồn tại trên một phạm vi lãnh thổ, cùng lao động, tích lũy, làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Song hành cùng quá trình đó chính là sự tự ý thức về chủ quyền, quyền lực ngày càng rõ ràng hơn. Quá trình tất yếu tiếp theo chính là nhu cầu về sự mở rộng phạm vi sống, chinh phục những miền đất mới và làm giàu tích lũy. Sự chia cắt, sáp nhập, di dời, lưu vong đã tạo ra những biến cố liên tục dẫn đến những thay đổi tất yếu và thường xuyên trong cộng đồng người. Để có thể vượt qua các mâu thuẫn nảy sinh đó, con người chọn cách gắn kết chặt chẽ lại với nhau và phân biệt nhau không chỉ trên lãnh thổ. Điều này nghĩa là gì? Văn hóa được tạo ra không phải sự tách biệt, riêng biệt, mà nó là sản phẩm của sự sáng tạo trong quá trình phát triển và văn hóa cũng chính là một dạng “cương vực, lãnh thổ” bởi nó mang đặc trưng dân tộc, hay căn tính dân tộc. Căn tính dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội, được xác lập trên cơ sở những đặc điểm của hiện hữu khách quan ban đầu khi cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình cộng đồng đó vận động, phát triển. Căn tính của một dân tộc được hợp nhất bởi căn tính của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hóa, dung hòa và thích nghi để cùng tồn tại, do đó, nó đại diện cho một nhóm người trong một phạm vi không gian văn hóa nhất định. Như vậy, văn hóa chính là một mặt biểu hiện quan trọng của căn tính dân tộc. Đi tìm bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc (national identity) hay tính dân tộc (nationality) thực chất đều là đi tìm cái riêng, cái đặc thù về văn hóa của dân tộc ấy. Điều này có thể hiểu là, nếu lãnh thổ là cơ sở đầu tiên để xác định một dân tộc thì nền tảng tiếp theo để làm nên dân tộc tính của một cộng đồng người chính là những tập quán và tính cách được hình thành trong một thời gian dài chung sống với những điều kiện tự nhiên xã hội nhất định. Mỗi một cá nhân khi sinh ra sẽ mang những căn tính riêng thuộc về mặt sẵn có, tuy nhiên, mặt khác nó tiếp tục hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên và sinh tồn. Căn tính cá nhân đó ảnh hưởng từ phạm vi nhỏ là cộng đồng gia đình, đến phạm vi lớn là cộng đồng dân tộc. Hiếm có dân tộc nào cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn thành phần tộc người, phạm vi lãnh thổ, hình thái xã hội như buổi sơ khai con người tìm đến với nhau và quyết định chia sẻ môi sinh, tài nguyên thiên nhiên và quyền lợi tập thể. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu trong bài viết “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 1/1986 đã khẳng định rằng: “Cho nên, tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, nếu không muốn là suy đoán chủ quan, thay thế kết luận khoa học bằng những mục tiêu tuyên truyền, như khi kháng chiến thì nói đặc tính của dân tộc ta là yêu nước, bất khuất, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì là cần cù lao động, khi gặp khó khăn thì lại là lạc quan yêu đời… thì chúng ta không nên hình dung đó là công việc nhận xét tổng hợp các thành tựu về tư tưởng, văn học, hội họa, âm nhạc, kiến trúc,… mà phải đánh giá đầy đủ bản lĩnh sáng tạo của dân tộc”. Điều mà nhà nghiên cứu muốn chỉ ra ở đây là vốn văn hóa dân tộc không được xác lập ngay vào thời kì định hình mà là cái được ổn định dần qua thời gian cho đến trước thời cận hiện đại. Bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc của một đất nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi và ổn định trước công cuộc mở cửa và hội nhập như vũ bão của thời đại toàn cầu hóa. Bên cạnh chúng ta, người Khmer với quốc gia mang tên Campuchia hiện nay cũng đang từng bước vững chắc phục hưng nền văn hóa trong văn minh lâu đời của chính mình như sức mạnh để vươn tới vị trí cao hơn sau những khủng hoảng về chính trị đã cách xa gần nửa thế kỷ.
813 lượt xem
Giáo dục và quản lý giáo dục trong thời đại 4.0 (Kỷ yếu hội thảo quốc tế). Quyển 1
Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục Việt Mỹ
Hội thảo Quốc tế “Giáo dục và Quản lý Giáo dục trong thời đại 4.0” do Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục Việt Mỹ tổ chức nhằm mục đích giới thiệu những nghiên cứu mới về khoa học giáo dục và quản lý giáo dục trong giai đoạn mới – giai đoạn phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 và Chương trình thay sách giáo khoa theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nội dung các bài viết tập trung vào những chủ đề chính sau: Chủ đề 1: Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện và chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Chủ đề 2: Giáo dục và quản lý giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số. Chủ đề 3: Khoa học giáo dục với Khoa học công nghệ trong công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Chủ đề 4: Ứng dụng khoa học và công nghệ trong giảng dạy chuyên ngành/học phần/bài giảng cụ thể. Mặc dù, đây là lần đầu tiên tổ chức, song Hội thảo đã nhận được gần 30 báo cáo của hơn 40 tác giả trong và ngoài nước. Ban tổ chức đã chọn 26 bài để in vào cuốn Kỷ yếu này.
765 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.04)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.04)

448 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.12/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.12/Q1)

241 lượt xem
Lò hơi trong sản xuất điện và trong công nghiệp -  Tập 3: Các quá trình lý hóa của Lò hơi
PGS.TS Trương Duy Nghĩa

Cuốn sách trình bày những vấn đề lý thuyết và kỹ thuật cơ bản nhất về lò hơi, và cũng là những kiến thức chung cho cả lò hơi công nghiệp và lò hơi điện, để cho các kỹ sư tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, nhất là các kỹ sư không tốt nghiệp ngành Kỹ thuật Nhiệt, đang công tác về lò hơi và lò đốt có thể tự học thêm để hiểu sâu các quá trình xảy ra trong lò. Một số kiến thức, một số chỉ tiêu thực tế rút ra từ kinh nghiệm vận hành, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng sách. Cuối sách có các bài đọc thêm, ngắn gọn, nhằm làm rõ hơn, mở rộng hơn các nội dung trình bày trong chương, được hiểu như là các nội dung tham khảo.

Cuốn sách này được dùng làm sách giáo khoa cho sinh viên các ngành Kỹ thuật nhiệt khi học môn học lò hơi, khi thực hiện các tính toán, thiết kế về lò hơi, đồng thời cũng là sách tham khảo cho các kỹ sư công tác về lò hơi, lò đốt.

271 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228/S1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228/S1)

614 lượt xem
Những vấn đề cơ bản về công tác thiết bị dạy học ở trường phổ thông
Lê Thanh Huy, Trần Xuân Bách
Cuốn sách “Những vấn đề cơ bản về công tác thiết bị dạy học ở trường phổ thông” là tài liệu tham khảo dành cho sinh viên sư phạm và bồi dưỡng viên chức làm công tác thiết bị dạy học ở cơ sở giáo dục phổ thông được thiết kế để dạy 30 tiết/310 tiết toàn chương trình bồi dưỡng. Đây là chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn nhằm cung cấp cho học viên những hiểu biết và kỹ năng làm việc với thiết bị dạy học trong nhà trường.
655 lượt xem
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia (1930 - 2020)
PGS TS Lê Đình Chỉnh
Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng giềng gần gũi cùng chung sống lâu đời trên vùng bán đảo có nhiều điểm tương đồng về các yếu tố địa - chính trị, địa - lịch sử, địa - kinh tế và địa - văn hóa. Trải qua nhiều thập kỷ đấu tranh giành độc lập, tự do, hai dân tộc Việt Nam và Campuchia luôn nương tựa vào nhau, cùng đồng cam cộng khổ, kề vai sát cánh bên nhau vì sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc và cả hai dân tộc. Trong cách mạng dân tộc giai đoạn 1945-1975, mối quan hệ đoàn kết truyền thống Việt Nam - Campuchia tiếp tục được phát triển và nâng lên một bước mới, từng bước vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cùng đấu tranh chống xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) của Việt Nam; Cách mạng Campuchia toàn thắng ngày 17/4/1975; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975 là kết quả của quá trình vận động cách mạng, đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia trong cuộc đấu tranh cùng chống kẻ thù chung vì mục tiêu chung là giành tự do và độc lập cho cả hai dân tộc. Từ năm 1975 đến năm 1979, tập đoàn phản động Khmer đỏ do Pol Pot đứng đầu đã thực hiện chế độ diệt chủng ở Campuchia giết hại hàng triệu người dân vô tội. Đồng thời tập đoàn diệt chủng này còn cho quân tiến hành các cuộc tấn công xâm lược Việt Nam, tàn phá nhiều làng mạc, giết hại nhiều thường dân tại các tỉnh biên giới Tây Nam của Việt Nam. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của mình, Việt Nam đã thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ, nhanh chóng đập tan các cuộc xâm lược của tập đoàn diệt chủng Pol Pot, quét sạch chúng ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời, theo yêu cầu của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đã thực hiện và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Khi đề cập đến vấn đề này, Thủ tướng Hun Sen khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhân dân Campuchia có niềm tin, chỉ có Tiên, có Phật mới cứu giúp được những phận người khi gặp khó khăn khốn cùng. Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu Tiên, Phật tới cứu thì Bộ đội tình nguyện Việt Nam xuất hiện. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”. Nhìn lại chặng đường gần thế kỷ (1930 - 2020), lịch sử đã chứng kiến sự gắn bó keo sơn, mật thiết giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước. Mối quan hệ truyền thống đoàn kết và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới, đó chính là tài sản vô giá mà mỗi người dân ở hai nước hôm nay cần tiếp tục giữ gìn, vun đắp và bảo vệ. Để giúp bạn đọc có thêm tài liệu tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử quan hệ Việt Nam - Campuchia, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả do PGS, TS Lê Đình Chỉnh làm chủ biên biên soạn, xuất bản cuốn sách: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Campuchia (1930 - 2020). Cuốn sách không chỉ cung cấp cho người đọc những hiểu biết một cách hệ thống về trang sử hào hùng của nhân dân hai nước trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn giúp người đọc hiểu được quá trình hồi sinh, xây dựng và phát triển của nhân dân Campuchia với sự giúp đỡ có hiệu quả của Việt Nam, sau khi thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot.
2080 lượt xem
Hội thảo khoa học năm học 2020-2021 Chủ đề: Nghiên cứu, giảng dạy ngôn ngữ, ngoại ngữ trong bối cảnh hiện nay (lần 2)
Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học thành phố Hồ Chí Minh
Thế giới đang đối mặt với đại dịch viêm đường hô hấp cấp biến chủng COVID-19 mới phức tạp, tuy nhiên không vì thế mà các hoạt động học thuật phải dừng lại. Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Phương Đông, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh (HUFLIT) đã tổ chức Hội thảo khoa học trực tuyến cấp trường năm học 2020 - 2021 với chủ đề “Nghiên cứu, giảng dạy ngôn ngữ, ngoại ngữ trong bối cảnh hiện nay” (lần 2). Buổi hội thảo có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc thu hút được gần 300 thầy cô và sinh viên tham gia thông qua nền tảng ứng dụng Microsoft Team. Đây là hoạt động thường niên của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông nhằm tạo điều kiện cho cán bộ giảng viên trong và ngoài trường có cơ hội trao đổi các thông tin hữu ích về khoa học giảng dạy ngôn ngữ, ngoại ngữ. Hội thảo vinh dự có sự hiện diện của TS. Nguyễn Anh Tuấn - Hiệu trưởng nhà trường, PGS.TS. Trần Văn Lăng - Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, các thầy cô là trưởng các đơn vị trong trường, giảng viên khoa Đông Phương và hơn 250 sinh viên cùng tham dự Hội thảo có 22 báo cáo, tham luận của các giảng viên, của các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu về ngôn ngữ, giảng dạy ngoại ngữ tại trường đại học. Nội dung các bài báo cáo xoay quanh việc sử dụng từ ngữ trên báo mạng hiện nay, việc ứng dụng các phương pháp giảng dạy, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa, kỹ thuật kiểm tra đánh giá trong giảng dạy trực tuyến trước diễn biến khó lường của dịch bệnh COVID hiện nay
586 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q1)

524 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.02)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.02)

521 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.10-Q1)
Nhiều tác giả

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.10-Q1)

172 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q2)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.03/Q2)

522 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q2)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.01/Q2)

485 lượt xem