Ấn phẩm khác
IWAMSN 2024 - The 11th International Workshop on Advanced Materials Science and Nanotechnology Proceedings
Vietnam Academy of Science and Technology

TOPICS OF THE WORKSHOP

1. Materials for Electronics and Photonics (code: MEP)

2. Nanostructured Materials and Devices (code: NMD)

3. Materials and Technologies for Green Energy and Decarbonization (code: MED)

4. Materials and Nanotechnologies for Life Sciences (code: MLS)

5. Materials and Ecological Technologies for Environment (code: MEE)

6. Advanced Engineering Materials (code: AEM)

7. Materials Data and Machine Learning (code: MDM)

3222 lượt xem
Kỷ yếu hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới
Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Hội Xuất bản Việt Nam

Nội dung cuốn sách gồm 29 báo cáo tham luận tại Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng toàn diện xuất bản phẩm trong tình hình mới do Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức.

1782 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.08/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.08/Q1)

489 lượt xem
Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Bàn (1947 – 2025)
Đảng bộ tỉnh Lào Cai, Ban Chấp hành đảng bộ huyện Văn Bàn

Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Bàn (1947-2025) ghi lại quá trình ra đời, phát triển và trưởng thành của Đảng bộ huyện qua 78 năm lịch sử đầy gian khổ mà vẻ vang. Từ thời kháng chiến, khắc phục hậu quả chiến tranh đến thời xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ luôn khẳng định vai trò lãnh đạo, đưa phong trào cách mạng của huyện từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuốn sách phản ánh sức mạnh của Đảng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc, đồng thời khích lệ thế hệ sau tiếp nối truyền thống quý báu này.

763 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.13/Q1)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.13/Q1)

480 lượt xem
Việt Nam - Campuchia: Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa
TS. Nguyễn Phương Liên
Con người từ buổi sơ khai đã sinh ra và tồn tại ở khắp nơi trên Trái đất, để có thể sinh tồn, theo một cách rất bản năng, họ kết lại thành bầy đàn để tự vệ cũng như lao động sản xuất. Từ sự tự phát bản năng ấy, các nhóm cùng tồn tại trên một phạm vi lãnh thổ, cùng lao động, tích lũy, làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Song hành cùng quá trình đó chính là sự tự ý thức về chủ quyền, quyền lực ngày càng rõ ràng hơn. Quá trình tất yếu tiếp theo chính là nhu cầu về sự mở rộng phạm vi sống, chinh phục những miền đất mới và làm giàu tích lũy. Sự chia cắt, sáp nhập, di dời, lưu vong đã tạo ra những biến cố liên tục dẫn đến những thay đổi tất yếu và thường xuyên trong cộng đồng người. Để có thể vượt qua các mâu thuẫn nảy sinh đó, con người chọn cách gắn kết chặt chẽ lại với nhau và phân biệt nhau không chỉ trên lãnh thổ. Điều này nghĩa là gì? Văn hóa được tạo ra không phải sự tách biệt, riêng biệt, mà nó là sản phẩm của sự sáng tạo trong quá trình phát triển và văn hóa cũng chính là một dạng “cương vực, lãnh thổ” bởi nó mang đặc trưng dân tộc, hay căn tính dân tộc. Căn tính dân tộc là một phạm trù có tính lịch sử của tồn tại xã hội, được xác lập trên cơ sở những đặc điểm của hiện hữu khách quan ban đầu khi cộng đồng mới hình thành và vẫn tiếp tục thay đổi, ổn định trong quá trình cộng đồng đó vận động, phát triển. Căn tính của một dân tộc được hợp nhất bởi căn tính của mỗi cá nhân trong cộng đồng trên nguyên lí của sự đồng hóa, dung hòa và thích nghi để cùng tồn tại, do đó, nó đại diện cho một nhóm người trong một phạm vi không gian văn hóa nhất định. Như vậy, văn hóa chính là một mặt biểu hiện quan trọng của căn tính dân tộc. Đi tìm bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc (national identity) hay tính dân tộc (nationality) thực chất đều là đi tìm cái riêng, cái đặc thù về văn hóa của dân tộc ấy. Điều này có thể hiểu là, nếu lãnh thổ là cơ sở đầu tiên để xác định một dân tộc thì nền tảng tiếp theo để làm nên dân tộc tính của một cộng đồng người chính là những tập quán và tính cách được hình thành trong một thời gian dài chung sống với những điều kiện tự nhiên xã hội nhất định. Mỗi một cá nhân khi sinh ra sẽ mang những căn tính riêng thuộc về mặt sẵn có, tuy nhiên, mặt khác nó tiếp tục hình thành và phát triển trong quá trình lớn lên và sinh tồn. Căn tính cá nhân đó ảnh hưởng từ phạm vi nhỏ là cộng đồng gia đình, đến phạm vi lớn là cộng đồng dân tộc. Hiếm có dân tộc nào cho đến nay vẫn giữ được nguyên vẹn thành phần tộc người, phạm vi lãnh thổ, hình thái xã hội như buổi sơ khai con người tìm đến với nhau và quyết định chia sẻ môi sinh, tài nguyên thiên nhiên và quyền lợi tập thể. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu trong bài viết “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 1/1986 đã khẳng định rằng: “Cho nên, tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, nếu không muốn là suy đoán chủ quan, thay thế kết luận khoa học bằng những mục tiêu tuyên truyền, như khi kháng chiến thì nói đặc tính của dân tộc ta là yêu nước, bất khuất, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì là cần cù lao động, khi gặp khó khăn thì lại là lạc quan yêu đời… thì chúng ta không nên hình dung đó là công việc nhận xét tổng hợp các thành tựu về tư tưởng, văn học, hội họa, âm nhạc, kiến trúc,… mà phải đánh giá đầy đủ bản lĩnh sáng tạo của dân tộc”. Điều mà nhà nghiên cứu muốn chỉ ra ở đây là vốn văn hóa dân tộc không được xác lập ngay vào thời kì định hình mà là cái được ổn định dần qua thời gian cho đến trước thời cận hiện đại. Bản sắc văn hóa, căn tính dân tộc của một đất nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đang tiếp tục thay đổi và ổn định trước công cuộc mở cửa và hội nhập như vũ bão của thời đại toàn cầu hóa. Bên cạnh chúng ta, người Khmer với quốc gia mang tên Campuchia hiện nay cũng đang từng bước vững chắc phục hưng nền văn hóa trong văn minh lâu đời của chính mình như sức mạnh để vươn tới vị trí cao hơn sau những khủng hoảng về chính trị đã cách xa gần nửa thế kỷ.
1405 lượt xem
Xây dựng mô hình hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản
Hoàng Văn Long, TS. Nguyễn Tiến Định, ThS. Đỗ Phương Chi, ThS. Trần Hữu Quang, TS. Nguyễn Mạnh Cường
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta xác định giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đã có nhiều chủ trương, chính sách về xóa đói giảm nghèo, trong đó nhấn mạnh việc giảm nghèo thông tin, mong muốn góp phần đẩy mạnh tuyên truyền, thay đổi nhận thức về giảm nghèo của cán bộ, chính quyền các cấp và người dân. Ngày 02 tháng 9 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1722/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020”. Các dự án của chương trình có đề ra hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết với người nghèo trong phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề, chế biến tiêu thụ sản phẩm. Sự phát triển sản xuất nghề đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân khu vực nông thôn. Tuy nhiên, ngoài các mặt tích cực của làng nghề thì hoạt động sản xuất của làng nghề đã và đang gây ra ô nhiễm môi trường. Để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, nhất là các làng nghề chế biến nông - lâm sản, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với nhóm tác giả thuộc Viện Phát triển kinh tế hợp tác thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các chuyên gia xuất bản cuốn sách “Xây dựng mô hình hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản”. Nội dung cuốn sách giới thiệu đến bạn đọc những thông tin tổng quan về tình hình ô nhiễm môi trường tại các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng; công tác quản lý, xử lý ô nhiễm môi trường; tình hình hợp tác xã tham gia quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường; hướng dẫn xây dựng hợp tác xã phù hợp về quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại một số làng nghề chế biến nông - lâm sản để nâng cao vai trò, vị trí của các hợp tác xã trong quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, nhất là các làng nghề chế biến nông - lâm sản, góp phần xây dựng nông thôn mới vùng đồng bằng sông Hồng trong những năm tới và giới thiệu một số công nghệ xử lý chất thải từ làng nghề chế biến nông - lâm sản, như nuôi giun trùn quế, trồng bèo tây, xử lý nước thải bằng than hoạt tính…
1698 lượt xem
Nâng cao hiệu quả hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới
Bộ Thông tin và Truyền thông

Các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc đa số là các hợp tác xã có quy mô nhỏ; số lượng thành viên ít nên có vốn rất hạn chế. Thành viên của các hợp tác xã nông nghiệp ở đây đa số là người dân tộc thiểu số, đời sống còn nhiều khó khăn, trình độ học vấn không đồng đều, nên hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ gặp nhiều khó khăn, thiếu ổn định hơn các vùng khác. Do vậy giải pháp để xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp đã đặt ra những thách thức lớn trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020”, trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ thực hiện tiêu chí về Thông tin và Truyền thông. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phối hợp với Viện Phát triển kinh tế hợp tác - Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Nâng cao hiệu quả Hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới”. Nội dung cuốn sách cung cấp những thông tin và kiến thức hữu ích cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, nhiệm vụ thông tin tuyên truyền về tình hình tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc, từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp, tăng thu nhập cho thành viên hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và góp phần xây dựng nông thôn mới tại các tỉnh Tây Bắc. Nội dung sách có sử dụng các khảo sát của nhóm tác giả cũng như các báo cáo của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để từ đó có con số thực tế cho việc xây dựng kế hoạch, hoạch định chính sách cho việc phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả các hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các tỉnh Tây Bắc trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

1350 lượt xem
Định Hoá - Viên ngọc xanh của Thái Nguyên
Nhiều tác giả

Định Hoá - Viên ngọc xanh của Thái Nguyên

10577 lượt xem
Cẩm nang chuyển đổi số
Bộ Thông tin và Truyền thông

Cuốn Cẩm nang này được xây dựng trên cơ sở các bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, thực tiễn của những người đã trăn trở, đã trực tiếp tham gia hoạch định cơ chế, chính sách, chiến lược và thực thi chuyển đổi số, với sự chung tay, giúp sức, kế thừa tri thức của nhiều chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học và doanh nhân Việt Nam. Lần tái bản này đã tiếp thu các ý kiến phản hồi, góp ý để chỉnh sửa, cập nhật. Đặc biệt, lần tái bản này bổ sung thêm nhiều câu chuyện chuyển đổi số ở Việt Nam, trên thế giới và 365 câu trích dẫn về chuyển đổi số.

2127 lượt xem
Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhiệm kỳ 2020 - 2025: Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, sáng tạo, phát triển
Đảng bộ Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Cuốn sách ghi lại một cách sinh động, chân thực và toàn diện những dấu ấn tiêu biểu trong nhiệm kỳ 2020 - 2025 của Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Qua từng hình ảnh, từng khoảnh khắc, thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí vươn lên, niềm đam mê học thuật và sự tận tụy cống hiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Cuốn sách không chỉ là sự phản ánh trung thực hành trình phát triển, mà còn là sự khẳng định bản lĩnh chính trị, trí tuệ tập thể và tinh thần phụng sự đất nước bằng tri thức và lý tưởng cộng sản. Đây cũng là một tài liệu có giá trị tuyên truyền, giáo dục sâu sắc về vai trò, vị thế và tầm ảnh hưởng của Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phát triển khoa học xã hội nước nhà.

2223 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.09 - Q1)
Nhiều tác giả

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.09 - Q1)

552 lượt xem
Xây dựng hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp
Bộ Thông tin và Truyền thông
Hợp tác xã là một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế nước ta, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế hiện nay, hợp tác xã nông nghiệp chính là môi trường để phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả; là cầu nối, tổ chức trung gian giữa người nông dân với doanh nghiệp và nhà nước. Hơn thế nữa, vai trò, vị trí của hợp tác xã nông nghiệp càng quan trọng hơn khi vừa hỗ trợ các thành viên tham gia thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020” theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 và Quyết định số 1760/QĐ-TTg ngày 10/11/2017 của Thủ tướng Chính phủ vừa thực hiện đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình mục tiêu quốc gia về Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 đã đi qua gần hết chặng đường, các địa phương trên cả nước bước đầu đã đạt được những thành tựu to lớn, các xã đã được công nhận “xã nông thôn mới” thời gian qua đều có các hợp tác xã được tổ chức hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Các hợp tác xã này không chỉ đóng vai trò tập hợp, vận động nông dân hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế mà còn thay đổi nếp nghĩ, cách làm cho bà con nông dân, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp và đóng góp tích cực vào xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Thực hiện nhiệm vụ Lãnh đạo Bộ giao, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các chuyên gia biên soạn, xuất bản cuốn sách “Xây dựng hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp” nhằm tuyên truyền, cung cấp những thông tin, kiến thức hữu ích cho cán bộ triển khai thực hiện nâng cao hiệu quả nhiệm vụ Chương trình mục tiêu quốc gia, các nhiệm vụ thông tin và truyền thông cũng như hoạt động của các hợp tác xã nói chung, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Nội dung cuốn sách gồm 3 chương: - Chương 1: Tổng quan về phát triển hợp tác xã kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp. - Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã tham gia xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp. - Chương 3: Hướng dẫn xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu nông nghiệp.
1105 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.06)
Đại học Thái Nguyên

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 228.06)

578 lượt xem
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.08/Q1)
Nhiều tác giả

Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên (Số 229.08/Q1)

1167 lượt xem
Như suối nguồn chảy mãi
Hội Hữu nghị Việt - Lào Thành phố Đà Nẵng

Từ lâu, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào đã được xem là một điển hình, một tấm gương mẫu mực về sự gắn kết bền chặt, thủy chung, trong sáng giữa hai dân tộc cùng kề vai, sát cánh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. Đối với nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt này được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan, nguy hiểm thế nào cũng không thể chia tách được. Năm 2017 là gắn dấu mốc 55 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (05/9/1962-05/9/2017). Cuốn sách “Như suối nguồn chảy mãi” do Liên hiệp các tổ chức hữu nghị và Hội hữu nghị Việt - Lào thành phố Đà Nẵng biên soạn nhằm ghi lại những dấu ấn, mốc son lịch sử của hai dân tộc Việt – Lào. Cuốn sách tập hợp những bài viết của các đồng chí Lãnh đạo thành phố, các chuyên gia, cựu tình nguyện quân từng chiến đấu, công tác tại Lào, các nhà văn, nhà báo và những người hoạt động trong các lĩnh vực làm “cầu nối” cho mối quan hệ hữu nghị Việt - Lào phát triển. Nội dung cuốn sách được cấu trúc gồm hai phần: Phần thứ nhất: Liên minh chiến đấu bền chặt. Phần thứ hai: Hợp tác toàn diện. “Như suối nguồn chảy mãi” tập trung thể hiện mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nghĩa tình của nhân dân thành phố Đà Nẵng với các địa phương Lào trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng, phát triển hiện nay. Với những nội dung đầy ý nghĩa như vậy, hy vọng cuốn sách sẽ để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc, những tình cảm đẹp về tình hữu nghị đặc biệt Việt - Lào và mong nhận được sự động viên, chia sẻ về những điều chưa thật trọn vẹn ở cuốn sách này./.

984 lượt xem