Combo sách V&V
Lễ hội Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Lễ hội cổ truyền là một đặc trưng của văn hoá người Việt, là nhu cầu không thể thiếu được trong tư duy và sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân. Trong đời sống người Việt, lễ hội là biểu hiện cách ứng xử văn hoá với thiên nhiên, với thần thánh và cộng đồng. Mỗi người có thể tìm thấy cho chính mình sự hồn nhiên tươi trẻ, niềm hưng phấn nghệ thuật, những xúc cảm chất phác, thơ ngây khi tự nguyện tham gia vào lễ hội. Lễ hội cũng được coi là một trong những nguồn sữa mẹ của các loại hình nghệ thuật. Lễ hội hỗn dung các tầng văn hoá trong tiến trình lịch sử, đồng thời bảo lưu, nuôi dưỡng và phát triển nhiều truyền thống văn hoá của cộng đồng, của dân tộc. Hà Nội là một đô thị cổ, nhưng cội nguồn sâu xa hơn cũng chính là một làng quê ven sông Nhị. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Thăng Long - Hà Nội trở thành vùng đất văn vật văn hiến - một miền hội hè phong phú. Lễ hội Hà Nội vừa có nét đặc trưng đô thị, vừa thấm đượm những phong vị của làng quê, mang dáng dấp của truyền thống và nguồn cội. Lễ hội Hà Nội vừa phong phú, đa dạng, vừa hấp dẫn, lôi cuốn vô cùng. Hà Nội có hàng ngàn lễ hội, trải suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, từ tháng Giêng đến tháng Chạp, từ đỉnh Ba Vì chon von đến dải đất thơ mộng ven hồ Tây quanh năm lộng gió. Qua năm tháng, lễ hội đã ăn sâu, bén rễ, hội tụ và lan tỏa các giá trị văn hóa trên mảnh đất cổ kính và linh thiêng, trở thành một phần không thể thiếu của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm tuổi.
1733 lượt xem
Tấm gương Bác - Ngọc quý của mọi nhà
TS. Nguyen Van Khoan

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Cuộc đời và sự nghiệp của Người đã nêu tấm gương sáng về phương pháp làm việc khoa học và học tập suốt đời cho toàn Đảng, toàn dân ta cùng lớp lớp các thế hệ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam nguyện phấn đấu học tập và noi theo.
Cuốn sách “Tấm gương Bác - Ngọc quý của mọi nhà” do TS. Nguyễn Văn Khoan sưu tầm qua các sách báo, tập hợp các bài viết, lời kể của các nhân chứng, những kỷ niệm sâu sắc về Bác Hồ thành một công trình dày dặn, phong phú. Nội dung cuốn sách vô cùng quý và có giá trị phổ biến, tên sách đã nói lên điều đó. Đây là những bài viết ngắn gọn, có nội dung súc tích, dễ đọc, dễ nhớ, phản ánh tình cảm gắn bó của Bác Hồ với bộ đội, cán bộ, nhân dân. Mối quan hệ mật thiết và cách ứng xử linh hoạt, có tình có lý của Bác Hồ với mọi người qua những câu chuyện bình thường, cụ thể trong đời sống hàng ngày đã được thuật lại một cách tự nhiên đến xúc động lòng người. Điều đáng được trân trọng nêu cao, đó là giá trị giáo dục to lớn xuyên suốt các bài viết từ đầu đến cuối công trình, qua từng bài, làm cho người đọc tiếp nhận một cách dễ dàng mà sâu sắc, lâu dài, mãi mãi. Người đọc sách này, tùy theo trình độ và tuổi tác, nghề nghiệp và thân phận, kể cả người nước ngoài - “Những chiến sĩ mới của Bác Hồ”, đều có thể rút ra từ đây những bài học lý tưởng và đạo đức làm người, để theo đó cố gắng học tập tư tưởng không ngừng tiến bộ. Tấm gương Bác lung linh không phải treo trên cao để mọi người cùng chiêm ngưỡng kính phục mà rất gần với mọi người, luôn luôn chiếu sáng, soi đường, chỉ lối cho chúng ta không ngừng tu dưỡng bản thân để có điều kiện phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân với chất lượng ngày càng tốt hơn, hiệu quả ngày càng cao hơn.
“Tấm gương Bác - Ngọc quý của mọi nhà” với nội dung phong phú và cao quý như vậy lại ra mắt bạn đọc trong một thời điểm rất thích hợp - Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019), nên đã cung cấp đúng lúc và kịp thời một tài liệu tham khảo quý có giá trị lý luận và thực tiễn cao, phục vụ đắc lực cho việc học tập tấm gương Bác một cách thiết thực và hiệu quả.

919 lượt xem
Kinh tế tri thức và phát triển bền vững (Tập 1)
Nguyễn Thanh Tuyên
Nhân loại đã trải qua hơn 20 năm đầu thế kỷ XXI - thế kỷ bùng nổ của công nghệ thông tin và kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu. Nhân loại cũng ngày càng thấm thía những giới hạn của thiên nhiên trước áp lực khủng khiếp về nhu cầu vật chất ngày càng gia tăng của 8 tỷ con người. Những nhu cầu vật chất không thể thay thế được ấy vốn là động lực của phát triển đang hủy hoại nghiêm trọng môi trường sống của con người là Trái Đất. Thông qua mô hình Niêu cơm Thạch Sanh, một mô hình tổng quát, vĩ mô cả về không gian và thời gian, cùng cách tiếp thu khoa học và phản biện, cuốn sách giúp độc giả hiểu được bản chất của sự phát triển, vai trò và ý nghĩa của công nghệ số, tri thức, đặc biệt là bí mật của quá trình tạo ra giá trị và của cải nhờ kinh tế tri thức và công nghệ số với các sản phẩm như phần mềm, vaccine phòng Covid-19. Cuốn sách dành cho những ai muốn có một tầm nhìn lớn, tư duy đột phá về con đường phát triển của nhân loại, về sức mạnh vô cùng to lớn của kinh tế tri thức, công nghệ thông tin và mối quan hệ của chúng với phát triển bền vững. Cuốn sách cũng dành cho những ai chuẩn bị trước cho tương lai trước những hiểm họa chưa từng có do sự phát triển mang tính hủy diệt của kinh tế và công nghệ khiến thế giới đi vào kỷ nguyên khan hiếm vĩnh viễn.
1445 lượt xem
Phân tích SWOT trong chiến lược kinh doanh
NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG
Mô hình phân tích SWOT là một công cụ hữu dụng được sử dụng nhằm hiểu rõ Điểm mạnh ( Strengths), Điểm yếu ( Weaknesses), Cơ hội ( Opportunities) và Nguy cơ ( Threats) trong phân tích kinh doanh của một doanh nghiệp. Thông qua phân tích SWOT, doanh nghiệp sẽ nhìn rõ mục tiêu của mình cũng như các yếu tố trong và ngoài tổ chức có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Trong quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược, phân tích SWOT đóng vai trò là một công cụ căn bản nhất, hiệu quả cao giúp bạn có cái nhìn tổng thể không chỉ về chính doanh nghiệp của mình mà còn thấy được những yếu tố luôn ảnh hưởng và quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp bạn. • Điểm mạnh là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tích cực hoặc có lợi giúp bạn đạt được mục tiêu. • Điểm yếu là những tác nhân bên trong doanh nghiệp mang tính tiêu cực hoặc gây khó khăn trong việc đạt được mục tiêu của bạn. • Cơ hội là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã hội, chính phủ…) mang tính tích cực hoặc có lợi giúp lợi đạt được mục tiêu. • Nguy cơ là những tác nhân bên ngoài doanh nghiệp ( thị trường kinh doanh, xã hội, chính phủ…) mang tính tiêu cực hoặc gây khó khăn trong việc đạt được mục tiêu của bạn. Có thể thấy, mục đích của phân tích SWOT là nhằm xác định thế mạnh mà bạn đang nắm giữ cũng như những điểm hạn chế cần phải khắc phục. Nói cách khác, SWOT chỉ ra cho bạn đâu là nơi để bạn tấn công và đâu là nơi bạn cần phòng thủ. Cuối cùng, kết quả SWOT cần phải được áp dụng một cách hợp lý trong việc đề ra một Kế hoạch hành động (Action plan) thông minh và hiệu quả. Thấy rõ tầm quan trọng của SWOT, trường Đào tạo Doanh nhân PTI, nơi đào tạo hàng nghìn nhà lãnh đạo cấp cao và cấp trung, đã tổ chức biên soạn cuốn sách “Phân tích SWOT trong chiến lược kinh doanh”. Hy vọng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể hiểu rõ SWOT để vận dụng thành công vào mô hình kinh doanh của doanh nghiệp mình.
2313 lượt xem
Các bức thư hay nhất thế giới - Kỷ niệm 50 năm cuộc thi viết thư quốc tế UPU (1971 - 2021)
Liên minh Bưu chính Thế giới

Liên minh Bưu chính Thế giới (gọi tắt là UPU) khởi xướng và tổ chức Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần đầu tiên vào năm 1971 dành cho các em thanh thiếu niên từ 10 - 15 tuổi với mục đích nhằm phát triển khả năng viết văn của thanh thiếu niên, làm phong phú thêm sự tinh tế trong tư duy, góp phần thắt chặt tình hữu nghị giữa các dân tộc và giúp các em hiểu biết thêm về bưu chính và vai trò của ngành Bưu chính trong cuộc sống và phát triển kinh tế, xã hội.
Mỗi năm UPU chọn ra một chủ đề của Cuộc thi gắn với các hoạt động mang tính văn hóa, kinh tế xã hội nổi bật chung của Liên hợp quốc hoặc các vấn đề lớn mang tính toàn cầu và cấp thiết. Thông qua các chủ đề này, các em học sinh không chỉ có dịp để phát triển tư duy và khả năng sáng tạo mà còn là dịp bày tỏ quan điểm và ý kiến của mình khi giải quyết các vấn đề liên quan tới chủ đề của cuộc thi. Nhiều em đã có những bức thư làm sửng sốt người đọc vì tư duy và tình cảm sâu sắc vượt trên lứa tuổi của mình, mang tính nhân văn sâu sắc.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU (1971 - 2021), Văn phòng Quốc tế UPU đã phát hành ấn phẩm tập hợp 53 bức thư đạt giải Nhất Quốc tế tại các Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU và bình chọn ra bức thư hay nhất trong số đó (Best of The Best). Bức thư đạt giải Nhất Quốc tế Cuộc thi Viết thư Quốc tế UPU lần thứ 7 (năm 1978) với chủ đề “Bác bưu tá, người bạn tốt của tôi - The postman, my best friend” đã được lựa chọn là bức thư hay nhất. Chủ nhân của bức thư đó là Mi-kyong Ryu, bé gái 11 tuổi đến từ Hàn Quốc vào năm 1978. Chủ đề và nội dung bức thư gắn tới hình ảnh thân quen về người bưu tá, gợi cho chúng ta nhớ tới hình ảnh các nhân viên Bưu điện Việt Nam - một trong những lực lượng tuyến đầu miệt mài chuyển phát thư, bưu kiện, hàng hoá tới tận tay người dân trong bối cảnh đại dịch Covid ảnh hưởng tới toàn xã hội. Để tạo cơ hội cho các Nhà trường và các em học sinh trên cả nước tiếp cận phiên bản bức thư hay nhất (Best of The Best) của UPU, Bộ Thông tin và Truyền thông đã liên hệ được bản quyền, và giao Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tổ chức biên dịch, biên tập, xuất bản và phát hành cuốn sách “Các bức thư hay nhất thế giới” sang tiếng Việt. Cuốn sách hữu ích này không chỉ giới thiệu nguyên tác 53 bức thư như những viên ngọc sáng lấp lánh sắc màu mà còn đem đến cho người đọc những ý tưởng, cảm xúc chân thật, các chi tiết ấn tượng nhất của mỗi bức thư. Đọc những bức thư sinh động và lay động lòng người trong ấn phẩm nêu trên cũng là lúc chúng ta lắng lại để suy ngẫm, cảm nhận và liên tưởng về cuộc sống xoay quanh mỗi chủ đề của cuộc thi. Hy vọng, các em học sinh sẽ tìm thấy trong cuốn sách của mình những gợi mở, những liên hệ thú vị để hình thành cách thể hiện riêng, ghi dấu ấn riêng và sẽ có những bức thư hay khi tham gia những cuộc thi tới.

4756 lượt xem
Tiểu vùng văn hóa xứ Đông
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Xứ Đông, hay xứ Hải Đông, là tên gọi dân gian để chỉ tiểu vùng văn hóa nằm ở mạn phía đông của vùng đồng bằng sông Hồng, chủ yếu bao gồm tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng hiện nay. Lấy Thăng Long - Kẻ Chợ làm trung tâm, có thể chia 4 phần còn lại của đồng bằng Bắc Bộ - tam giác châu sông Hồng và sông Thái Bình thành “tứ trấn” (tứ chiếng): Hải Đông trấn (lộ, xứ) tức xứ Đông; Sơn Tây trấn (xứ) tức xứ Đoài; Sơn Nam trấn (xứ) tức xứ Nam; Kinh Bắc trấn (xứ) tức xứ Bắc. Còn miền núi phía Bắc và từ Thanh, Nghệ trở vào Nam thì đều là vùng ngoại vi đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Với cách phân chia như vậy, xứ Đông gần như nằm trọn trong lưu vực sông Thái Bình. Hệ thống sông Thái Bình bị chi phối mạnh bởi chế độ thủy triều nên đất đai ở xứ Đông không màu mỡ như ở xứ Nam. Nguồn sống chính của cư dân nơi đây chủ yếu dựa vào đánh bắt thủy hải sản kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Thủ công nghiệp trong vùng cũng khá phát triển, đặc biệt tập trung quanh các khu vực kế cận thành phố Hải Dương, thành phố Hải Phòng với số lượng ngành nghề đa dạng, phong phú, như nghề làm vật dụng (chiếu, nón, lược, mũ, giầy dép), nề, mộc, chạm khắc, đan mây tre, chế biến lương thực thực phẩm, khắc ván in sách... Xứ Đông có vị chí chiến lược quan trọng. Từ Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) có 6 đường thủy bộ đi ra biển và tiến vào đất liền, kết nối với Thăng Long - Hà Nội. Cũng chính vì lý do đó nên hoạt động thương mại ở nơi đây diễn ra từ rất sớm. Buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển suốt một dải ven biển Hải Phòng và mở rộng ra khu vực lân cận, tạo thành những đầu mối giao thương không chỉ của thương nhân khắp mọi miền đất nước Việt Nam mà còn của khách buôn ngoại quốc đến từ Trung Quốc, Cao Ly (Triều Tiên), Ấn Độ... Văn hóa xứ Đông có sự hội tụ, hỗn dung giữa văn hóa nông nghiệp (đồng bằng) và văn hoá biển (vùng duyên hải, hải đảo). Quá trình đô thị hoá (nhất là từ thời Pháp thuộc với các trung tâm công nghiệp, khai mỏ...) làm phong phú, đa dạng hơn văn hóa nơi đây nhờ sự tiếp nhận những yếu tố mới ảnh hưởng từ bên ngoài. Cư dân xứ Đông khá phức tạp. Cộng đồng cư dân nơi đây là kết quả của nhiều đợt di cư trong lịch sử. Vào khoảng đầu thiên niên kỷ I, chính quyền đô hộ Đông Hán chuyển một bộ phận người dân từ miền trung du xuống ven biển làm muối và khai thác hải sản. Theo sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (dòng họ Vũ “tổ tiến sĩ” ở Mộ Trạch, Bình Giang, Hải Dương) thì Hải Đông là quê hương nguyên thủy của nhà Trần thuở hàn vi lưu lạc, sau mới dời về Tức Mặc - Thiên Trường (Nam Định). Tiếp đó, dân cư từ các vùng khác cũng đến khẩn hoang, lập làng. Cũng có trường hợp những người vượt biển từ phía bắc xuống, phía nam lên. Từ muôn nẻo, các nhóm cư dân kẻ trước người sau cùng tới mảnh đất này, cộng cư lâu dài, tạo thành một cộng đồng cư dân mới trong vùng.
1058 lượt xem
Hanoi Fine Arts
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
In the traditional art of Vietnam, Hanoi folk art plays an especially important role. The artifact sculptures in pagodas, communal houses, temples of Hanoi or the unique folk paintings of Hang Trong, Kim Hoang illustrate great footprints of Thang Long - Hanoi folk art in particular and Vietnam folk art in general. At the same time, Hanoi fine art reflects the soul and characters of old Hanoians and preserve great cultural, historical values in many aspects of life. In contemporary and modern period, with new Hanoians, from self-taught artists and those graduated from Indochina College of Fine Arts, from folk artist to well-trained ones, Hanoi modern art has not stopped to acquire from the scientific methods of Western art (considered as a scientific basis to build artistic images) as well as to inherit from the quintessence of traditional plastic arts in artistic creation in many materials such as oil paint, lacquer, silk, carvings, which constantly create art works in the general flow of art. Hanoi fine art has reflected the beauty of living images, traditions, customs, characteristics of Hanoians with complete artistic quality, bearing its own authentic features in the culture of image creation. Many masterly talents with their own unique art styles of Hanoi Fine Arts have contributed to the creation of a general appearance of Vietnamese fine arts. Concurrently, Hanoi fine art is the converging and shining place for the crop of the cream of traditional art as well as for many masters of paintings - sculptures of Vietnamese modern art with their own cachet.
400 lượt xem
Vang vọng lời nước non - Tập 4: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân
Ban Tuyên giáo Trung ương

Cách đây hơn một thế kỷ, năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, Người đã đi qua gần 30 quốc gia, 4 châu lục và 3 đại dương, vừa làm nhiều công việc khác nhau vừa miệt mài học tập, tiếp thu kho tàng tri thức đồ sộ của nhân loại, trực tiếp tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng ở châu Âu và Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng và khoa học này con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người kiên trì, sáng tạo, từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc. Cùng với các công việc cực kỳ hệ trọng, trong suốt cuộc đời mình, Người tích lũy được một khối lượng tri thức - văn hóa đồ sộ, nghiền ngẫm sâu sắc từ chỉ đạo và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới, Người xây dựng cho mình một hệ thống các quan điểm vô cùng độc đáo và sâu sắc, mang dấu ấn của riêng Người. Từ những năm 20 của thế kỷ XX đến nay, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam, cho toàn bộ quá trình đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và đó chính là “tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta”.

1195 lượt xem
Vang vọng lời nước non - Tập 9: Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng
Ban Tuyên giáo Trung ương

Cách đây hơn một thế kỷ, năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, Người đã đi qua gần 30 quốc gia, 4 châu lục và 3 đại dương, vừa làm nhiều công việc khác nhau vừa miệt mài học tập, tiếp thu kho tàng tri thức đồ sộ của nhân loại, trực tiếp tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng ở châu Âu và Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng và khoa học này con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người kiên trì, sáng tạo, từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc. Cùng với các công việc cực kỳ hệ trọng, trong suốt cuộc đời mình, Người tích lũy được một khối lượng tri thức - văn hóa đồ sộ, nghiền ngẫm sâu sắc từ chỉ đạo và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới, Người xây dựng cho mình một hệ thống các quan điểm vô cùng độc đáo và sâu sắc, mang dấu ấn của riêng Người. Từ những năm 20 của thế kỷ XX đến nay, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam, cho toàn bộ quá trình đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và đó chính là “tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta”.

1153 lượt xem
Khủng hoảng tài chính: Những điềm báo trước giờ G - Biến cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính lớn nhất lịch sử thành vận hội của bạn
JR, Harry S.Dent, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Andrew Pancholi
NHÀ VẬT LÝ THIÊN VĂN NEIL DEGRASSE TYSON đã từng giải thích 85% vũ trụ được cấu thành bởi vật chất tối như thế nào. Nhưng chúng ta lại không thể nhìn thấy được vật chất tối. Chúng ta cũng không biết vật chất tối là gì. Chúng ta chỉ biết rằng, các phương trình để giải thích vũ trụ sẽ không cân bằng nếu không tính đến loại vật chất này. May mắn thay, vật chất tối cũng có trọng lượng, cho nên chúng ta có thể phát hiện được và tính toán ảnh hưởng của nó. Cuộc đời của chúng ta cũng giống như vũ trụ vậy, trong đó “vật chất tối” của cuộc sống chính là các chu kỳ. Mặc dù chúng ta không nhìn thấy được chúng, không thể chạm vào chúng, cũng như không thể nào khám phá hết vì có quá nhiều chu kỳ, nhưng mỗi chu kỳ luôn có một ảnh hưởng nhất định đến cuộc đời chúng ta ở nhiều thời điểm. Chu kỳ là yếu tố vô hình chi phối cuộc đời chúng ta. Khi thế kỷ này dần trôi qua, chúng ta bị cuốn vào một loạt các chu kỳ kinh tế, chính trị, tài chính, xã hội, và địa chính trị làm thay đổi bộ mặt thế giới. Chúng ta đang tiến sâu hơn vào Mùa Đông Kinh Tế, là giai đoạn khắc nghiệt nhất trong Chu Kỳ Kinh tế 80 năm mà tôi phát hiện được (tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn ở các phần sau). Mùa Đông Kinh Tế thường đi kèm với một đợt tái thiết lớn – đợt tái thiết chỉ xảy ra một lần trong đời – tái thiết lại các bong bóng nợ và tài sản tài chính, từ đó tạo ra một nền kinh tế hoàn toàn mới. Một đợt tái thiết lớn như vậy từng xảy ra vào những năm 1930. Hãy nghĩ xem bạn sẽ có lợi thế lớn như thế nào nếu như nhìn thấy trước đợt tái thiết lớn này. Nghĩa là bạn đang có cơ hội chớp lấy những thương vụ để đời bằng cách thâu tóm các tài sản tài chính sinh lợi với giá rẻ một lần nữa! Chúng ta đang chịu ảnh hưởng tiêu cực khi Bốn Chu Kỳ Cơ Bản cùng nhau hội tụ, thiết lập đỉnh và đi xuống – là bốn chu kỳ chính cực kỳ quan trọng đối với diễn biến của thị trường chứng khoán, sự tồn vong của các nền kinh tế, và an toàn của công dân toàn cầu.
992 lượt xem
Những dấu ấn lịch sử về Hồ Chí Minh và Đảng do người sáng lập
PGS. TS Đàm Đức Vượng

Cuốn sách Những dấu ấn lịch sử về Hồ Chí Minh và Đảng do Người sáng lập trình bày một cách có hệ thống về toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người sáng lập Nhà nước cách mạng Việt Nam; những tên chữ, bút danh, bí danh của Người gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng đầy sóng gió của Người; về các tổ chức tiền thân của Đảng; về Hội nghị thành lập Đảng và toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng trải qua 12 Đại hội đại biểu toàn quốc.

2123 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội
Hà Nguyễn, Ha Nguyen
Thủ đô Hà Nội là trung tâm của cả nước, nơi hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc. Ít có nơi nào lưu giữ được nhiều chứng tích lịch sử như thành phố Hà Nội. Nơi đây, mỗi địa danh, mỗi đường phố đều gắn với các sự tích, chiến công của ông cha. Những địa danh như Cổ Loa, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình... chứa đựng những dấu ấn, ghi nhớ những chặng đường lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí bất khuất và tài năng của nhân dân Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Một nét kiến trúc Chùa Một Cột, tổng hòa không gian Văn Miếu - Quốc Tử Giám... đều góp phần làm rạng rỡ truyền thống lịch sử - văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là chứng tích vô giá của truyền thống ngàn năm văn vật, là viên ngọc quý, là cổ vật thiêng liêng của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Các di tích lịch sử - văn hóa Hà Nội là biểu tượng của sức sống nội tại, được dựng xây từ mồ hôi công sức và cả xương máu của lớp lớp thế hệ người Việt Nam nói chung và người Hà Nội nói riêng. Đó là những tảng đá nền kê chân cột để tạo dựng tòa nhà cao vững, vừa là bằng sắc để minh chứng cho quá khứ huy hoàng, vừa là di sản quý giá, là nét vàng son của phẩm chất đặc trưng cho con người Hà Nội, con người Việt Nam, vừa là linh hồn truyền tải những giá trị thiêng liêng của mảnh đất ngàn năm văn vật. Thăng Long - Hà Nội sắp bước qua tuổi ngàn năm. Thăng Long - Hà Nội có hàng ngàn di tích lịch sử - văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa chính là một cây cầu kết nối Thăng Long xưa với Hà Nội nay, nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai. Yêu Thăng Long - Hà Nội, trân trọng di sản của ông cha, trước hết và hơn hết là yêu, trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa Thăng Long - Hà Nội.
1631 lượt xem
Hữu Ngọc: Đồng hành cùng thế kỷ Văn hóa - Lịch sử Việt Nam
Hữu Ngọc
Là “nhà xuất nhập khẩu văn hóa”, Hữu Ngọc đã sáng tác và thuyết trình nhiều để giới thiệu ra thế giới tinh hoa văn hóa Việt Nam và phổ biến trong nước tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc. Chúng tôi, độc giả nước ngoài, tìm hiểu văn hóa Việt Nam qua tác phẩm Lãng du trong văn hóa Việt Nam của ông: bản tiếng Anh (Wandering through Vietnamese culture) được Giải vàng sách Việt Nam 2006, tái bản và in 10 lần, bản tiếng Pháp (A la decourverte de la culture du Vietnam) được giải GADIF 2008 (Giải các đại sứ và tổ chức Pháp ngữ ở Việt Nam) và in 6 lần - tổng cộng khoảng hai vạn bản in. Hữu Ngọc là một mắt xích nối văn hóa Việt Nam với văn hóa thế giới. Tác phẩm Hữu Ngọc - Đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam giới thiệu lịch sử văn hóa Việt Nam qua chân dung những người cùng thời với ông. Hữu Ngọc sinh cuối năm 1918. Ông sống gần trọn thế kỷ XX và bắc cầu sang thế kỷ XX - XXI. Ở trong nước, ông vừa là nhân chứng và như các công dân Việt Nam khác, là tác nhân ít nhiều của các giai đoạn lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, Cách mạng tháng Tám, Tuyên ngôn độc lập, chiến tranh chống Pháp, Mỹ, Khơme đỏ, Trung Quốc, thời “bao cấp”, thời “đổi mới mở cửa” đến “toàn cầu hóa”. Trong khung cảnh quốc tế, ông cũng sống trong giai đoạn cực kỳ biến động, sau chiến tranh thế giới I, cuộc đấu tranh dân chủ chống Phát xít, chiến tranh thế giới II, chiến tranh lạnh, Mỹ bá chủ thế giới sau khi Liên Xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, công cuộc phi thực dân hóa, thế giới thứ ba trỗi dậy, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vô tiền khoáng hậu, sự diễn biến sắp xếp - cân bằng lực lượng của các siêu cường… Trong tác phẩm này, Hữu Ngọc thể nghiệm vốn sống của mình trong bối cảnh quốc gia và quốc tế, thể nghiệm qua giao lưu trực tiếp và gián tiếp (sách, báo, thông tin) với những người cùng thời. Hữu Ngọc hiểu “Hữu Ngọc đồng hành cùng thế kỷ văn hóa - lịch sử Việt Nam” theo quan niệm chủ quan của mình: đó là những người trong nước và ngoài nước sống và hành động khi ông bước vào tuổi có ý thức về cuộc sống xã hội ngoài cái nôi gia đình (tuổi lên 9 - 10). Đối với ông, cụm từ “những người cùng thời” bao gồm những nhân vật có tên và cả quần chúng, các nhóm xã hội vô danh. Vì tác giả chỉ đề cập đến những giao lưu tiếp xúc bản thân, nên có thể có những nhân vật và sự kiện quan trọng đương thời không xuất hiện trong sách của ông. Thị lực của Hữu Ngọc rất yếu nhưng cái nhìn nội tâm của ông lại rất sâu sắc, đôi lúc hóm hỉnh khi phác họa một chân dung, kể lại một sự việc, nêu lên hay thể hiện một vấn đề. Mong các bạn đọc thích thú tìm thấy ở những người cùng thời một bức trang lịch sử gần trăm năm với những âm hưởng lan tỏa cho đến ngày nay.
1518 lượt xem
Câu chuyện Chuyển đổi số 2021
Bộ Thông tin và Truyền thông

Cuốn sách giới thiệu những câu chuyện về chuyển đổi số của Việt Nam, bao gồm các câu chuyện thành công được thực tiễn kiểm chứng là hiệu quả, có thể tham khảo nhân rộng và các câu chuyện sưu tầm có những ý tưởng, giải pháp tiềm năng

1585 lượt xem
Thương mại điện tử
TS Nguyễn Viết Khôi, Ao Thu Hoài
Cuốn sách “Thương mại điện tử” được ra đời lần đầu tiên vào năm 2001 và sau 15 năm được dần hoàn thiện theo hướng phát triển của khoa học với mong muốn cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản của TMĐT dưới góc độ kinh tế: lợi ích, nền tảng, các hình thức ứng dụng cũng như xu hướng phát triển. Đồng thời, cũng giới thiệu với học viên những vấn đề cần thiết nhất trong sáu chương. Chương I: Giới thiệu tổng quan về thương mại điện tử, bao gồm bức tranh toàn cảnh về phát triển thương mại điện tử ở đầu thế kỷ XXI, các khái niệm cơ bản và quan trọng nhất liên quan đến thương mại điện tử, đặc trưng, chức năng và các hoạt động của thương mại điện tử, lợi ích và hạn chế và cuối cùng là lịch sử phát triển thương mại điện tử. Chương II: Giới thiệu về cơ sở hạ tầng phát triển, hay có thể hiểu là những yếu tố tiền đề cần xem xét để có thể phát triển được thương mại điện tử, chẳng hạn như công nghệ, tình hình kinh tế xã hội, pháp luật ở địa phương.v.v... Chương III: Giới thiệu về mô hình giao dịch điện tử như B2B, B2C.v.v... Chương IV: Bao gồm các nội dung liên quan đến thanh toán trực tuyến như quy trình, công cụ, an ninh bảo mật trong hệ thống thanh toán. Chương V: Hướng dẫn cách thức xây dựng một giải pháp thương mại điện tử, từ lập kế hoạch đến triển khai kinh doanh và đầu tư công nghệ. Chương VI: Giới thiệu tổng quan về tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
1576 lượt xem
Dấu ấn của nhà báo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc
Nguyễn Văn Khoan, Đỗ Quang Hưng
Trong việc tìm hiểu, nghiên cứu cuộc đời yêu nước - cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, có một điều chúng ta rất dễ nhận thấy đó là sự thống nhất - có thể gọi là sự kết hợp, chặt chẽ giữa hai mục tiêu giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét trong sự nghiệp báo chí của Người. Và trong thực tế, sự nghiệp báo chí của Người là vô cùng phong phú và sáng tạo, gắn liền và phục vụ đắc lực yêu cầu của từng thời kỳ hoạt động, không chỉ giới hạn vào phạm vi báo chí trong nước mà còn mở rộng ra cả phạm vi nước ngoài (Trung Quốc, Liên Xô, Pháp, Thái Lan), kể cả báo chí của Quốc tế Cộng sản. Cuốn sách “Dấu ấn của nhà báo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc” của GS. Đỗ Quang Hưng và TS. Nguyễn Văn Khoan đã đáp ứng đúng yêu cầu của công việc tìm hiểu - nghiên cứu và học tập tư tưởng của Người một cách chính xác, khoa học. Để biên soạn cuốn sách này, nhóm biên soạn đã có nhiều công phu trong việc khai thác, thu thập tư liệu từ nhiều nguồn và nhiều phía, tuy rằng chủ yếu là thừa hưởng kết quả sưu tầm và nghiên cứu của các tập “Hồ Chí Minh tuyển tập” và “toàn tập” đã được công bố rộng rãi trong nhiều năm qua, nhưng đã có sự điều chỉnh, bổ sung thêm một số tư liệu mới được khai thác từ các trung tâm lưu trữ trong nước và nước ngoài, đặc biệt là có sự đóng góp kịp thời và hiệu quả của “Thư mục các bài viết của Nguyễn Ái Quốc” đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp do nhà sử học Pháp Alain Ruscio (là Giám đốc Trung tâm thông tin các tư liệu về nước Việt Nam hiện đại - viết tắt là C. I. D.) xuất bản nhân dịp kỷ niệm 100 năm báo Nhân đạo mới ra mắt bạn đọc (1904 - 2004), dưới đề mục chung “Vấn đề thuộc địa trên báo Nhân đạo”. Nội dung phong phú và khoa học của cuốn sách “Dấu ấn của nhà báo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc” được giới thiệu theo một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cuốn sách giới thiệu khá tỉ mỉ tình hình ra đời và phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam từ những ngày đầu, và phát triển liên tục cho tới ngày nay, và vai trò to lớn, có tính quyết định, mở đường khai lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đó. Cuốn sách gồm hai phần chính: Phần I giới thiệu 26 bài viết của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo thời gian, bài sớm nhất là “Tâm địa thực dân” năm 1919 cho tới bài cuối cùng là “Trả lời phỏng vấn của Sáclơ Phuốcniô” năm 1969, chỉ trước khi Người đi xa một thời gian ngắn. Phần II giới thiệu 12 bài viết của một số nhà khoa học nghiên cứu về các bài báo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có Phụ lục lần lượt giới thiệu Tổng mục các bài viết của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên báo L’Humanité của Đảng Cộng sản Pháp và cuối cùng là một số tài liệu, bản chụp bài viết của Nguyễn Ái Quốc bằng tiếng Việt - Pháp - Anh - Hán. Có thể khẳng định rằng cơ cấu như vậy là chặt chẽ và hoàn chỉnh đối với một công trình mang tính giới thiệu thông tin. Chỉ tiếc rằng nếu trong Phần I bên cạnh tên bài báo có cả thông tin về bài báo đăng trên số nào, ngày nào thì sẽ cụ thể, khoa học hơn.
1649 lượt xem