Tiếng Việt
Chọn ngôn ngữ
Tiếng Việt
English
Nhà xuất bản Thông tấn xã Việt Nam (tên gọi tắt là Nhà xuất bản Thông tấn) tên giao dịch: VIETNAM NEWS AGENCY PUBLISHING HOUSE (Viết tắt là VNA PUBLISHING HOUSE)
Nhà xuất bản chuyên ngành Thông tấn, thông tin báo chí, có chức năng biên soạn, xuất bản và phát hành các loại ấn phẩm phục vụ cho công tác thông tin, báo chí, tuyên truyền đối nội, đối ngoại về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Là một trong những đơn vị thông tin của TTXVN, có cơ hội tiếp cận với ngân hàng tin, ảnh tư liệu giá trị của ngành, NXBTT đã quyết định tập trung vào ba mảng đề tài lớn, được coi là những thế mạnh của đơn vị:
Mảng sách Thời sự - sự kiện
Mảng sách Nghiệp vụ báo chí
Mảng sách ảnh
- Về lãnh tụ và các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối Việt Nam
- Về các dân tộc Việt Nam, về lịch sử cách mạng dân tộc
- Về lịch sử và hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể Trung ương, địa phương
- Về Việt Nam đất nước con người
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng Việt Nam” là cuốn sách chuyên khảo có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần làm sáng tỏ vai trò, sứ mệnh và những chuẩn mực cốt lõi của nền báo chí cách mạng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm hệ thống một cách khoa học các quan điểm của Người về bản chất của báo chí cách mạng; yêu cầu về đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ của người làm báo; cũng như phương pháp, phong cách tuyên truyền gần dân, trọng dân, vì dân.
Cuốn sách cũng phân tích tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc xây dựng đội ngũ nhà báo trung thực, giản dị, dũng cảm, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc và của nhân dân lên trên hết. Thông qua việc luận giải những giá trị thời sự và định hướng vận dụng trong bối cảnh mới, tác phẩm giúp độc giả hiểu sâu hơn nền tảng tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam hiện nay, đồng thời gợi mở các giải pháp nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và tính nhân văn của báo chí trong thời kỳ chuyển đổi số.
Vùng núi Bắc Bộ nhìn dưới lăng kính địa lý nhân văn, được chia làm hai miền Đông và Tây, dòng sông Cái - sông Hồng là ranh giới tự nhiên. Theo đó, miền Đông Bắc bao gồm 6 tỉnh, gọi tắt là Cao - Bắc (nay là tỉnh Thái Nguyên) - Lạng - Thái - Tuyên - Hà (nay là tỉnh Tuyên Quang). Miền Tây Bắc hiện nay cũng gồm có 6 tỉnh là: Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái (nay là tỉnh Lào Cai), Sơn La và Hòa Bình (nay là tỉnh Phú Thọ).
Nói đến vùng núi Bắc Bộ cũng không thể không lưu ý đến miền trung du liền kề ngay phía nam địa bàn này. Đó là vùng đệm, nối liền giữa miền núi và khu vực đồng bằng sông Hồng. Trên bình diện cả vùng núi Bắc Bộ có đến 26 tộc người sống cận cư và xen cư với nhau. Vì thế, lãnh thổ tộc người khá mờ nhạt, mang tính lịch sử và mang tính tương đối như hiện nay. Mỗi miền Đông hoặc Tây đều có những đặc trưng về tự nhiên và văn hóa - xã hội riêng. Dòng sông Lô phát nguyên từ Bàn Long Giang ở Trung Hoa chảy qua Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang), có chi nhánh lớn là sông Gâm chảy qua Tuyên Quang. Tại Lạng Sơn có sông Kỳ Cùng. Sông Hồng chảy qua Lào Cai và Phú Thọ rồi đổ dòng vào Hà Nội. Sông Đà từ Lai Châu, Sơn La đổ dòng vào hồ Sông Đà ở Hòa Bình (nay là tỉnh Phú Thọ).
Cả vùng núi và trung du Bắc Bộ từ lâu đã trở thành cái nôi ngưng tụ các luồng di dân từ miền Nam Trung Quốc xuống và từ miền tây sang. Tộc người với số đông vượt trội và là cư dân chủ thể tại miền Đông Bắc có các tộc Tày, Nùng. Họ tiếp thu sâu đậm văn hóa miền Nam Trung Quốc; đời sống tâm linh theo Nho - Phật - Đạo; đẩy mạnh nông nghiệp trồng lúa nước, phát triển thủ công nghiệp, mở chợ phiên ở từng vùng để mua bán định kỳ.
Tộc người có số đông vượt trội và là cư dân chủ thể tại miền Tây Bắc là tộc người Thái có ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Nhưng ở phía nam sông Đà là tộc người Mường. Họ đều theo tín ngưỡng cổ truyền với tâm thức vạn vật hữu linh, thờ cúng đa thần nguyên thủy.
Về thành phần tộc người ở mỗi miền Đông và Tây nói trên, trong số 26 tộc người cư trú sớm hoặc muộn tại vùng núi Bắc Bộ, có tới 9 tộc người phân cư ở cả hai miền Đông và Tây. Cùng với người Tày, có số lượng dân cư đáng kể ở cả hai miền là người Mông, Dao, Sán Chay, Nùng, Giáy. Số ít có người Phù Lá, Lô Lô và Bố Y. Trên miền Đông Bắc chỉ có 4 tộc người dân số ít đều không có bộ phận nào sinh sống ở miền Tây. Đó là các nhóm La Chí, Pà Thẻn, Cờ Lao và Pu Péo. Trái lại, trên miền Tây Bắc Bắc Bộ có đến 13 tộc người, có dân số đông như: Thái, Mường, Khơ Mú, Xinh Mun. Dân số ít hơn có các tộc: Hà Nhì, Kháng, La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, v.v… đều vắng bóng trên miền Đông Bắc.
Những tộc người ở vùng núi Bắc Bộ đều được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới ở đây theo thứ tự dân số dựa vào kết quả của cuộc tổng điều tra năm 2019. Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những sai sót, mong nhận được những góp ý chân thành của bạn đọc.
Biển, đại dương đã, đang và sẽ trở thành vấn đề chiến lược trong sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong xu thế hội nhập quốc tế và “toàn cầu hóa” đang diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay, với tầm nhìn “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương” (Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”), Việt Nam đã khẳng định tầm nhìn hướng biển với quyết tâm xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển tương ứng với tiềm năng vốn có của biển Việt Nam.
Từ khởi thủy, người Việt Nam đã quần tụ và sinh trưởng trên dải đất hình chữ S nằm bên Biển Đông bao la, làm bạn với núi rừng, đồng bằng và biển cả. Quá trình lâu dài dựng xây đất nước, kiên cường bảo vệ non sông và bền bỉ mở mang bờ cõi của lớp lớp thế hệ người Việt Nam, với bao mồ hôi, nước mắt và máu xương, mới tạo thành và trao truyền lại cho các thế hệ tiếp nối một giang sơn tươi mát màu xanh của núi rừng, đồng ruộng và biển cả mênh mông. Biển, đảo lưu dấu đậm nét trong đời sống văn hóa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, xuyên suốt và gắn liền với dòng chảy của lịch sử đất nước.
Từ lâu, biển, đảo đã trở thành một phần không thể tách rời của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, đối với mỗi người Việt Nam hôm nay, hiểu biết kỹ lưỡng, sâu sắc về biển, đảo quê hương cũng cần thiết như hiểu biết một người thân, với những nét đẹp và cả những hạn chế, chính là cơ sở để yêu thương nhiều hơn, gắn bó bền vững hơn, đóng góp tích cực hơn. Đó là mong muốn lớn nhất của tác giả khi biên soạn cuốn sách này, và có lẽ đó cũng là điều quan trọng nhất mà Nhà xuất bản Thông tấn muốn gửi gắm, gây dựng khi đứng ra làm “người đỡ đầu” cho cuốn “cẩm nang” về biển, đảo Việt Nam này.
Cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam tập 1 gồm 100 câu hỏi - đáp chưa thể hiện được tất cả những gì thuộc về biển, đảo của Tổ quốc, nhưng hy vọng phác họa được phần nào bức tranh toàn cảnh về biển, đảo Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và cả dự báo một phần của tương lai phía trước. Cuốn sách sẽ cố gắng cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ bản nhất và cũng cập nhật nhất trong khả năng có thể về những vấn đề liên quan đến biển, đảo quê hương. Với cuốn sách này, bạn đọc sẽ được cung cấp những kiến thức vừa tổng hợp, vừa cụ thể, vừa bao quát, vừa chi tiết về biển, đảo Việt Nam, những thông tin cơ bản về pháp luật, từ các quy định của luật pháp quốc tế về biển đảo được cộng đồng quốc tế ký kết cách đây hơn 40 năm (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982) cho đến những điều luật cơ bản của Luật Biển Việt Nam 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII ban hành ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Bạn đọc cũng sẽ thu nhận được nhiều tri thức bất ngờ, thú vị về biển, đảo quê hương, từ ý nghĩa của tên gọi một hòn đảo cho đến những dấu ấn biển, đảo thẳm sâu trong tâm thức dân gian, từ câu chuyện về quá trình xác lập chủ quyền xa xưa cho đến những cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền vừa diễn ra cách đây chưa lâu, vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí bao người dân Việt...
Đồng cảm, chia sẻ những tâm huyết của người biên soạn, với mong muốn có thể làm một nhịp cầu nối liền bạn đọc và biển, đảo quê hương, Nhà xuất bản Thông tấn trân trọng giới thiệu cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam tập 1. Thu góp lượng kiến thức rộng lớn về biển, đảo Việt Nam vào trong vài trăm trang sách là một việc khó khăn, chắc chắn không thể tránh khỏi sự thiếu sót nên rất mong nhận được sự góp ý của quý độc giả, để có thể kịp thời bổ sung, chỉnh lý trong lần tái bản sau.
Tài liệu, số liệu sử dụng trong cuốn sách được thống kê trước ngày 01/7/2025 nên tên gọi các địa danh vẫn sử dụng theo phương án trước khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội khóa XV.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nhà xuất bản Thông tấn
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Biển, đại dương đã, đang và sẽ trở thành vấn đề chiến lược trong sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong xu thế hội nhập quốc tế và “toàn cầu hóa” đang diễn ra hết sức mạnh mẽ hiện nay, với tầm nhìn “Thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại dương” (Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”), Việt Nam đã khẳng định tầm nhìn hướng biển với quyết tâm xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển tương ứng với tiềm năng vốn có của biển Việt Nam.
Từ khởi thủy, người Việt Nam đã quần tụ và sinh trưởng trên dải đất hình chữ S nằm bên Biển Đông bao la, làm bạn với núi rừng, đồng bằng và biển cả. Quá trình lâu dài dựng xây đất nước, kiên cường bảo vệ non sông và bền bỉ mở mang bờ cõi của lớp lớp thế hệ người Việt Nam, với bao mồ hôi, nước mắt và máu xương, mới tạo thành và trao truyền lại cho các thế hệ tiếp nối một giang sơn tươi mát màu xanh của núi rừng, đồng ruộng và biển cả mênh mông. Biển, đảo lưu dấu đậm nét trong đời sống văn hóa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, xuyên suốt và gắn liền với dòng chảy của lịch sử đất nước.
Từ lâu, biển, đảo đã trở thành một phần không thể tách rời của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, đối với mỗi người Việt Nam hôm nay, hiểu biết kỹ lưỡng, sâu sắc về biển, đảo quê hương cũng cần thiết như hiểu biết một người thân, với những nét đẹp và cả những hạn chế, chính là cơ sở để yêu thương nhiều hơn, gắn bó bền vững hơn, đóng góp tích cực hơn. Đó là mong muốn lớn nhất của tác giả khi biên soạn cuốn sách này, và có lẽ đó cũng là điều quan trọng nhất mà Nhà xuất bản Thông tấn muốn gửi gắm, gây dựng khi đứng ra làm “người đỡ đầu” cho cuốn “cẩm nang” về biển, đảo Việt Nam này.
Cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam tập 2 gồm 100 câu hỏi - đáp chưa thể hiện được tất cả những gì thuộc về biển, đảo của Tổ quốc, nhưng hy vọng phác họa được phần nào bức tranh toàn cảnh về biển, đảo Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và cả dự báo một phần của tương lai phía trước. Cuốn sách sẽ cố gắng cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ bản nhất và cũng cập nhật nhất trong khả năng có thể về những vấn đề liên quan đến biển, đảo quê hương. Với cuốn sách này, bạn đọc sẽ được cung cấp những kiến thức vừa tổng hợp, vừa cụ thể, vừa bao quát, vừa chi tiết về biển, đảo Việt Nam, những thông tin cơ bản về pháp luật, từ các quy định của luật pháp quốc tế về biển đảo được cộng đồng quốc tế ký kết cách đây hơn 40 năm (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982) cho đến những điều luật cơ bản của Luật Biển Việt Nam 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII ban hành ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Bạn đọc cũng sẽ thu nhận được nhiều tri thức bất ngờ, thú vị về biển, đảo quê hương, từ ý nghĩa của tên gọi một hòn đảo cho đến những dấu ấn biển, đảo thẳm sâu trong tâm thức dân gian, từ câu chuyện về quá trình xác lập chủ quyền xa xưa cho đến những cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền vừa diễn ra cách đây chưa lâu, vẫn còn nguyên vẹn trong tâm trí bao người dân Việt...
Đồng cảm, chia sẻ những tâm huyết của người biên soạn, với mong muốn có thể làm một nhịp cầu nối liền bạn đọc và biển, đảo quê hương, Nhà xuất bản Thông tấn trân trọng giới thiệu cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam tập 2. Thu góp lượng kiến thức rộng lớn về biển, đảo Việt Nam vào trong vài trăm trang sách là một việc khó khăn, chắc chắn không thể tránh khỏi sự thiếu sót nên rất mong nhận được sự góp ý của quý độc giả, để có thể kịp thời bổ sung, chỉnh lý trong lần tái bản sau.
Tài liệu, số liệu sử dụng trong cuốn sách được thống kê trước ngày 01/7/2025 nên tên gọi các địa danh vẫn sử dụng theo phương án trước khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 của Quốc hội khóa XV.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nhà xuất bản Thông tấn
Tây Nguyên là vùng đất của các cao nguyên miền tây Trung Bộ, nằm ở sau dãy núi Trường Sơn Nam, còn gọi là Tây Trường Sơn. Các cao nguyên ở đây có độ cao từ 1.200m, xuống đến 500m. Từ bắc qua nam có các cao nguyên nổi tiếng như:
Ở đầu bắc có cao nguyên Kon Plông nằm giữa hai dãy núi An Khê về phía đông và Ngọc Krinh về phía tây. Tiếp sau là cao nguyên Kon Hà Nừng rồi đến cao nguyên Pleiku rộng lớn. Tại miền Trung Tây Nguyên có cao nguyên Buôn Ma Thuột và cao nguyên M’đrăk về phía đông; cao nguyên Đăk Nông về phía tây. Xuống nam Tây Nguyên có các cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên), cao nguyên Đran (Đơn Dương) và cao nguyên Blao (Bảo Lộc). Ranh giới phía nam các tỉnh Đăk Nông (nay là tỉnh Lâm Đồng) và Lâm Đồng là vùng đất Nam bộ với đồng bằng sông Cửu Long và miền đất cao ở phía đông.
Ngoài cư dân Việt (Kinh), trên toàn khu vực nói trên là địa bàn sinh sống chủ yếu của 15 tộc người, trong đó 11 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer, chiếm quá nửa số lượng tộc người nhóm Môn - Khmer trên lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó là 3 trong số 5 tộc người nhóm ngôn ngữ Malayo - Polynesian thuộc ngữ hệ Nam Đảo; và chỉ có duy nhất một tộc người Hoa được giới thiệu ở tập hợp này.
Về tộc người Hoa thì tổ tiên họ lần hồi có mặt trên vùng núi Bắc Bộ từ thời Bắc thuộc. Còn tại Nam Bộ, họ mới di cư tới từ năm 1679 vào đời Chúa Nguyễn Phúc Tần (tức Chúa Hiền). Với những cộng đồng tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer thì bán đảo Đông Dương đã là nơi sinh tụ của tổ tiên họ từ nhiều thiên niên kỷ trước Công nguyên, khi mà những tộc người có nguồn gốc Nam Đảo còn chưa có mặt trên đồng bằng ven biển miền Trung và các cao nguyên miền Tây Trung Bộ như ngày nay.
Cuốn sách này giới thiệu khái quát những nét chính về 15 cộng đồng tộc người sinh sống ở khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, bao gồm: Lược sử tộc người, Cuộc mưu sinh, Tập quán sinh hoạt, Phong tục cổ truyền, Đời sống tâm linh và Văn học - nghệ thuật dân gian. Đặc biệt nhấn mạnh về văn hóa truyền thống ở 11 tộc người Môn - Khmer với nhiều thang bậc phát triển từ thấp đến cao, và lưu giữ được nhiều thành tố văn hóa từ rất xa xưa, soi tỏ không ít những dấu ấn của văn hóa truyền thống hiện tồn. Trên đất nước Việt Nam, cộng đồng ngôn ngữ Môn - Khmer có 21 tộc người. Họ phân bố dân cư ở 3 khu vực với những ảnh hưởng khác nhau từ các địa bàn cư trú. Khu vực Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ có quá nửa số lượng tộc người. Văn hóa cội nguồn còn lưu giữ được dưới nhiều dạng tồn tại khác nhau, ít chịu ảnh hưởng văn hóa ngoại tộc.
Những tộc người này được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới theo thứ tự dựa vào kết quả của cuộc Tổng điều tra về dân số và nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê công bố.
Mặc dù chúng tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những sai sót, sơ suất, chúng tôi rất mong bạn đọc lượng thứ và xin nhận được những góp ý chân thành.
Cuốn sách giới thiệu khái quát những nét chính về 12 cộng đồng tộc người sinh sống ở các tỉnh ven biển và miền Trung, bao gồm: Lược sử tộc người, Cuộc mưu sinh, Tập quán sinh hoạt, Phong tục cổ truyền, Đời sống tâm linh và Văn học - nghệ thuật dân gian. Trong đó có 6 tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khmer, 2 tộc người nói ngôn ngữ Nam Đảo, 2 tộc người nói ngôn ngữ Việt - Mường và 2 tộc người nói ngôn ngữ Hán Quảng Đông. Diện mạo này cho thấy khu vực ven biển Đông thuộc lãnh thổ Việt Nam là một vùng hỗn cư, gồm những nhóm tộc người thuộc 4 thành phần ngôn ngữ khác nhau vì ven biển là nơi cửa mở.
Những tộc người này được sắp xếp, bố cục trước - sau, trên - dưới theo thứ tự dựa vào kết quả của cuộc Tổng điều tra về dân số và nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê công bố.
Năm 2024, Đoàn công tác số 15 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong quá trình công tác, học tập và rèn luyện. Với tinh thần đoàn kết, trách nhiệm và sáng tạo, các thành viên trong đoàn không chỉ phát huy cao độ năng lực cá nhân mà còn góp phần xây dựng tập thể vững mạnh, gắn bó. Những chuyến đi, những buổi làm việc, những kỷ niệm đáng nhớ trong suốt hành trình là minh chứng sống động cho tinh thần cống hiến, khát vọng vươn lên và tình đồng đội bền chặt. Kỷ yếu này là nơi lưu giữ lại những dấu mốc ý nghĩa, để mỗi thành viên khi nhìn lại đều cảm nhận được niềm tự hào và động lực tiếp tục phấn đấu trong chặng đường sắp tới.
Cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam, tập 2, gồm 100 câu hỏi - đáp chưa thể hiện được tất cả những gì thuộc về biển, đảo của Tổ quốc, nhưng hy vọng dựng lên được phần nào bức tranh toàn cảnh về biển, đảo Việt Nam, trong quá khứ, trong hiện tại và cả dự báo một phần của tương lai phía trước. Cuốn sách sẽ cố gắng cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ bản nhất và cũng cập nhật nhất trong khả năng có thể về những vấn đề liên quan đến biển, đảo quê hương. Với cuốn sách này, bạn đọc sẽ được cung cấp những kiến thức vừa tổng hợp, vừa cụ thể, vừa bao quát, vừa chi tiết về biển, đảo Việt Nam, những thông tin cơ bản về pháp lý, từ các quy định của luật pháp quốc tế về biển đã được cộng đồng quốc tế ký kết cách đây hơn 40 năm (Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982) cho đến những điều luật cơ bản của Luật Biển Việt Nam 2012 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII ban hành ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013.
Cuốn sách Hỏi đáp về biển, đảo Việt Nam tập 1 gồm 100 câu hỏi - đáp thể hiện những thông tin cơ bản về biển, đảo của Tổ quốc, nhưng hy vọng dựng lên được phần nào bức tranh toàn cảnh về biển, đảo Việt Nam, trong quá khứ, trong hiện tại và cả dự báo một phần của tương lai phía trước. Bộ sách sẽ cố gắng cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ bản nhất và cũng cập nhật nhất trong khả năng có thể về những vấn đề liên quan đến biển, đảo quê hương.
Hôn nhân không chỉ là bước chuyển trọng đại trong chu kỳ vòng đời người mà còn là một sự kiện quan trọng đối với mỗi gia đình, dòng họ, làng xóm... Ngoài các quy định của pháp luật, hôn nhân cần được xác lập thông qua các phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác và luôn biến đổi theo thời gian. Bởi vậy, phong tục cưới hỏi không chỉ là một trong những nghi lễ quan trọng của chu kỳ vòng đời người, mà còn phản ánh rõ nét
đặc điểm văn hóa tộc người với những dấu ấn truyền thống và hiện đại. Từ xưa đến nay, các dân tộc Việt Nam đều rất chú trọng phong tục cưới hỏi. Phong tục cưới hỏi vừa là một sinh hoạt văn hóa tâm linh, vừa là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Phong tục cưới hỏi chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống đã được chắt lọc, kết tinh qua nhiều thế hệ, như lối sống, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa nghệ thuật... và có tác động sâu sắc đến việc hình thành cốt cách, tình cảm, diện mạo văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Phong tục cưới hỏi là một phần không thể thiếu đối với mỗi gia đình, dòng họ và cộng đồng, một thành tố quan trọng góp phần cấu thành nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Dân gian Việt Nam có câu “Nghĩa tử là nghĩa tận”, mang ý nghĩa những ứng xử đối với sự chết của con người là những ứng xử cuối cùng đối với cuộc đời của một con người, cũng là những hành động rốt ráo trong quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng. Tang ma là nghi lễ cuối cùng trong chu trình vòng đời của con người. Từ xưa đến nay, các dân tộc Việt Nam đều rất chú trọng phong tục tang ma. Hầu hết các cộng đồng tộc người ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều quan niệm cái chết không phải là sự chấm dứt hoàn toàn và chết không phải là hết. Cái chết chỉ là sự chấm dứt cuộc sống hiện tiền trong chu trình vòng đời ở hiện tại và khởi đầu một cuộc sống mới ở thế giới bên kia, có thể là thế giới của tổ tiên, thế giới của thần linh hoặc những cảnh cõi huyền diệu khác. Bởi vậy, phong tục tang ma của các dân tộc Việt Nam vừa là các nghi thức để hoàn thành những thời khắc cuối cùng của người chết trong đời sống hiện tại; tỏ lòng tri ân của gia đình, dòng họ và cộng đồng đối với người quá cố; đồng thời là bước chuẩn bị và tiễn đưa người chết bước vào một cuộc sống mới ở thế giới bên kia.
Người Sán Dìu có nhiều tên gọi khác nhau như: Sán Dìu, Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán Quần Cộc...Tháng 3-1960, Tổng cục Thống kê Trung ương đã đưa vào danh mục thống kê tên gọi Sán Dìu và từ đó đến nay, Sán Dìu đã trở thành tên gọi chính thức và phổ biến của tộc người này.
Theo số liệu thống kê năm 2019, người Sán Dìu đang sinh sống tại Bắc Giang với dân số 33.846 người, tập trung tại các huyện Lục Ngạn 26.236 người, huyện Lục Nam 4.237 người, Lạng Giang 1.584 người, Yên Thế 721 người.
Tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, cấp sắc Đại Phan ….hàng năm bà con tảo mộ ngày 3/3 Tết thanh minh, ngày 5/5 cúng tổ tiên, dằm tháng bảy lễ cơm mới…các món ăn truyền thống như: xôi đỏ, bánh rợm, bánh chưng, bánh đỗ xanh, bánh đường…
Phụ nữ Sán Dìu thường mặc váy và chiếc váy của người Sán Dìu là một trong những nét độc đáo mang tính riêng biệt của dân tộc. Váy màu nâu đỏ, không khâu, gồm 2 hoặc 4 mảnh đính trên 1 cạp, có dải yếm, xà tích. Phụ nữ Sán Dìu thường quấn xà cạp bằng vải màu trắng hoặc màu nâu. Đồng bào hay đi dép quai ngang và guốc gộc. Phụ nữ có sung màu trắng đeo trên vai được làm từ dây dù, cước được bện bằng đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Sán Dìu, thời gian hoàn thành xong khoảng 1-2 tháng. Ngày nay phụ nữ Sán Dìu cũng mặc quần, áo sơ mi và đi dép nhựa, giày da, giày vải như người Kinh. Trang sức của người Sán Dìu có vòng tay, vòng cổ, khuyên tai bạc, dao.
Trước đây trong các dịp lễ Tết, hội hè hoặc đi chơi xa, đàn ông thường mặc hai áo, áo trong màu trắng, áo ngoài màu đen. Đó là loại áo 5 thân, cổ áo cài khuy bên phải, áo dài quá gối, ống tay hẹp. Ngày nay trong dân tộc Sán Dìu, nam giới mặc quần áo giống hệt người Kinh với các kiểu quần Âu, áo sơ mi nâu sòng, hồng đỏ, đi giày da, dép nhựa...
Nhằm tiếp tục đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, quảng bá về vẻ đẹp, tiềm năng của các tuyến biên giới quốc gia trên đất liền đến đông đảo công chúng trong và ngoài nước, đồng thời giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thiết thực hướng tới chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức Cuộc thi ảnh nghệ thuật với chủ đề “Tự hào một dải biên cương”.
Qua 5 tháng phát động cuộc thi, Ban Tổ chức đã nhận được: 4.477 tác phẩm dự thi (4.078 ảnh đơn; 399 bộ ảnh, mỗi bộ ảnh gồm 5-8 ảnh đơn) của 745 tác giả, đến từ 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước gửi về. Hội đồng giám khảo đã làm việc khách quan, công tâm, trách nhiệm để chọn ra: 2 giải Nhất, 3 giải Nhì, 6 giải Ba, 10 giải Khuyến khích; trưng bày triển lãm 197 tác phẩm. Để các tác phẩm ảnh “Tự hào một dải biên cương” được lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội cũng là cơ hội tôn vinh các tác giả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp từ mọi miền Tổ quốc, kiều bào ở nước ngoài, người nước ngoài đang công tác và sinh sống tại Việt Nam, Ban Tổ chức cuộc thi phối hợp với Nhà xuất bản Thông tấn biên soạn, xuất bản cuốn sách ảnh “Tự hào một dải biên cương”.
Cuốn sách khắc họa vẻ đẹp quê hương, đất nước, con người ở các vùng biên giới trên đất liền, từ “Sắc màu biên cương”, “Mùa xuân ở Lao Xa”, “Mùa vàng nơi biên ải”, “Bình minh miền biên viễn” đến “Độc đáo lễ hội đua bò ở vùng biên”, “Mùa nước nổi ở biên giới An Giang”, “Lễ cấp sắc của người Dao Đỏ”...
Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, hòa bình, phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới trên đất liền được khẳng định qua những hình ảnh về hoạt động giao thương với nước bạn tại các cửa khẩu, những cuộc giao lưu thắm tình hữu nghị nơi biên cương và các cuộc phối hợp tuần tra biên giới song phương giữa Việt Nam với các nước láng giềng. Đặc biệt, cuốn sách dành những hình ảnh đẹp, xúc động ghi nhận và tôn vinh những đóng góp, hy sinh của các thế hệ người Việt Nam, nhất là các lực lượng vũ trang trong công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Xuất bản cuốn sách, chúng tôi mong muốn lan tỏa những cảm xúc chân thành, vẹn nguyên và sâu sắc từ những bức ảnh tới công chúng yêu nghệ thuật Việt Nam; khẳng định thắng lợi của những chủ trương, đường lối và những nỗ lực, thành tựu của Đảng, Nhà nước, của các địa phương đặc biệt là các địa phương khu vực biên giới trong việc xây dựng tuyến biên giới quốc gia trên đất liền, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam tới bạn bè quốc tế.